|
Bài Thứ 1:
Chương Văn Thù
A.- Mục lục
1.
Ngài Văn Thù hỏi Phật
2. Phật khen Ngài Văn Thù
3. Phật trả lời cho Ngài Văn Thù
4. Phật chỉ “Vô minh”
5. Phật dạy “Vô minh” không có thật thể
6. Phật dạy tu theo “Viên giác”
7. Phật và Bồ Tát đều tu theo “Viên Giác”
8. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
B.- Phần
Chánh-tôn
I.- CHƯƠNG VĂN-THÙ
1. Ngài
Văn Thù hỏi Phật
Khi ấy Ngài
Văn-thù Sư Lợi Bồ-tát ở trong đại-chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng, rồi chắp tay đảnh-lễ và quỳ thẳng bạch rằng:"
Bạch đức
Ðại-bi Thế-Tôn, xin Ngài vì thính-chúng trong pháp-hội hiện-tại nầy và các
chúng-sanh cầu Ðại-thừa đời sau, từ bi chỉ dạy:
1. Nói
lại nhơn-địa tu-hành thanh-tịnh của Như-Lai;
2. Các
vị Bồ-tát đối với Ðại-thừa, đã phát tâm thanh-tịnh (Bồ-đề) rồi, làm sao xa
lìa được các bịnh (trừ-vọng); khiến cho các chúng-sanh khỏi đọa vào đường
tà (tà-kiến).
Ngài Văn-thù
Bồ-tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính lạy rồi trở lui, cùng với đại chúng
ngồi yên-lặng, để chờ nghe lời Phật chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Ðại-ý đoạn nầy là Ngài Văn-Thù hỏi Phật hai điều:
1. Phật
đã tu-hành như thế nào mà được thành Phật?
2. Các
vị Bồ-tát, khi đã phát-tâm Bồ-đề rồi, làm sao cho các vọng đừng sanh?
Câu
hỏi thứ nhất giống như câu hỏi trong kinh Lăng-Nghiêm, Ngài A-Nan hỏi Phật:
“...Xin Phật chỉ dạy cho con phương-pháp nào mà tất cả các đức Phật tu-hành
đều được thành đạo chứng quả...”.
Câu
hỏi thứ hai, giống như câu hỏi trong kinh Kim-Cang, Ngài Tu-Bồ-Ðề hỏi
Phật: “... Làm sao an-trụ Chơn-tâm và làm sao hàng-phục được
Vọng-tâm...” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng-phục kỳ tâm).
2. Phật
khen Ngài Văn Thù
Khi ấy đức
Thế-Tôn kêu Ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát mà dạy rằng:
- Nầy
Thiện-nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ-tát hiện-tại và tất cả chúng-sanh
đời sau cầu pháp Ðại-thừa mà thưa hỏi:
1. Nhơn-địa
tu-hành của Như-Lai;
2. Khi
đã phát-tâm thanh-tịnh rồi, làm sao xa-lìa các bịnh, để khỏi đọa vào tà-kiến. Vậy
ông hãy chăm-chú nghe, tôi sẽ vì các ông chỉ giáo.
Khi đó Ngài
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát và đại-chúng đều hoan-hỷ, vừa kính-cẩn và vừa
chăm-chú chờ nghe lời Phật dạy bảo.
LƯỢC GIẢI
Phật trước
khen-ngợi, rồi sau dặn-dò phải chăm-chú nghe, là vì “Viên-giác” là
cảnh-giới thanh-tịnh, phải định-tâm chú-thần mà nghe, không thể dùng tâm
sanh-diệt, ý-nghĩ xằng-xiêng mà nghe hiểu được
3. Phật trả lời cho Ngài Văn Thù
- Này
thiện-nam, Như-Lai có pháp “Ðại Ðà-la-ni” (1) tên là “Viên-Giác”. Từ
tánh “Viên-Giác” nầy mà sanh ra tất cả các pháp thanh-tịnh: Chơn-như,
Bồ-đề (Trí-giác) Niết-bàn (viên-tịch) và Ba-la-mật
(Ðáo-Bỉ-Ngạn), nay ta sẽ dạy trao cho các ông.
Nầy
Văn-Thù, nhơn-địa tu-hành của các đức Phật, đều y “Viên-Giác” nầy mà
vĩnh-viễn đoạn trừ vô-minh, được sáng-suốt thanh-tịnh viên-mãn, nên mới
được thành Phật.- Vậy “Vô-minh” là gì?
LƯỢC
GIẢI
Ngài
Văn-Thù hỏi nguyên-nhơn tu-hành của các đức Phật thế nào?- Ðến đây Phật mới
trả lời: Tất cả chư Phật đều y “Viên-Giác” để chiếu phá vô-minh và
được thành Phật. Nào là: Chơn-như, Bồ-đề, Niết-bàn và Bát-nhã
Ba-la-mật-đa v.v... cũng đều từ “Viên-Giác” nầy mà lưu xuất. Vậy muốn ngộ
được “Viên-giác’ trước phải hiểu rõ. Vô-Minh và diệt trừ vô-minh là
điều cần nhứt.
4. Phật
chỉ “Vô minh”
- Nầy
Thiện-nam, tất cả chúng-sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên-đảo làm
mê-mờ tánh “Viên-Giác”, như người lạc đường, lầm lộn bốn
phương. Ðiên-đảo vọng-hiện ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ-đại
giả hợp nầy làm thân mình, chấp cái vọng-niệm sanh diệt duyên theo
bóng-dáng của sáu trần cho là thật tâm mình. Như người nhặm con mắt,
thấy trong hư-không có các hoa đốm, hoặc mặt trăng thứ hai. Thật ra
trong hư-không chẳng có hoa đốm hay mặt trăng thứ hai, nhưng vì người nhặm
con mắt vọng-chấp. Bởi vọng-chấp, nên chẳng những không biết được
hư-không, mà lại thêm mê-lầm: Chấp thật có hoa đốm sanh. Vì
mê-lầm mà có sanh-tử luân-hồi, nên gọi là “Vô-minh”.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn nầy
Phật chỉ rõ cái “Vô-minh”. Vô-minh là những cái vọng-tưởng điên-đảo
che mờ tánh “Viên-Giác” (bản tâm thanh-tịnh).
Bởi Vô-minh
vọng hiện ra có thân có cảnh rồi chúng-sanh trở lại chấp thật-ngã
thật-pháp, tạo ra vô-số nghiệp, mê-mờ chồng-chập, che đậy tánh
Viên-Giác! Vì thế mà nhiều kiếp sanh-tử luân-hồi, trầm-luân trong biển
khổ.
Cũng như
người bị buồn ngủ (dụ cho Vô-minh) nổi lên, làm cho mê-mờ tánh tỉnh-táo (dụ
cho Viên-Giác); nhơn đó hiện ra cảnh chiêm-bao đủ cả người và vật (hiện
thế-giới và chúng-sanh), rồi cũng khóc cũng cười, cũng mừng cũng giận, mỗi
mỗi đều cho là thiệt cả, nên luyến-ái triền miên, từ giấc chiêm-bao nầy
tiếp-tục qua giấc chiêm-bao khác, không biết chừng nào thức-tỉnh.
Ðây là dụ
cho Vô-minh chồng-chập che mờ tánh “Viên-Giác” (Chơn-tâm).
5. Phật dạy “Vô minh” không có thật thể
- Nầy
thiện-nam! Cái “Vô-minh” này không có thật thể (thật vật). Như
người ngủ chiêm-bao, thấy các cảnh vật, đến khi thức rồi, thì cảnh vật kia
không còn; và như người hết nhặm, thì các hoa đốm trong hư-không tự
tiêu-diệt. Lúc bấy giờ không thể nói “thật có chỗ hoa diệt”, vì không
thật có chỗ hoa sanh vậy.
Tất cả
chúng-sanh ở trong cái “không sanh diệt” (tánh Viên-Giác) mà vọng thấy có
sanh-diệt, cho nên mới bị trầm luân trong biển sanh-tử
luân-hồi.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật dạy: Tất cả chúng-sanh vẫn ở trong bản tánh Viên-Giác thanh-tịnh
không sanh không diệt, mà tự mình mê-mờ (Vô-minh) vọng thấy có sanh-diệt,
nên vĩnh kiếp triền-miên, luống chịu trôi lăn trong biển sanh-tử luân-hồi,
thật đáng thương!
Nhưng
“Vô-minh” là hư-vọng, không có thật-thể, cho nên khi giác-ngộ rồi, thì nó
tự hết. Cũng như các “Tối”, vì nó không có thật-thể, nên khi “ Sáng”
đến, thì “Tối” tự mất. Nếu Vô-minh là vật có thật, như núi, như sông
v.v... thì không dễ gì làm tiêu nó được.
Phật lại
tỷ-dụ: Vô-minh như chiêm-bao, không phải thật vật, nên khi thức rồi thì
cảnh chiêm-bao tự mất. – Vô-minh như mắt người bị nhặm, thấy hoa-đốm
lăng-xăng giữa hư-không khi hết nhặm rồi thì hoa đốm liền tiêu.
6. Phật
dạy tu theo “Viên giác”
- Nầy
Thiện-nam, nhơn-địa tu-hành của Như-Lai là tu theo Viên-Giác. Nghĩa
là: biết các pháp đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không có người chịu
sanh-tử luân hồi.
Không phải
phá hoại, làm cho các pháp mất đi mà kêu là không, chính bản-tính của các
pháp nó tự không. Cái “biết (năng biết) các pháp không” đó, cũng như
hư-không. “Cái biết như hư-không”, cũng không luôn. Nhưng không
thể nói: “không có cái biết”. Phải dứt trừ hết cả “có” và “không”, như
thế mới gọi là “tùy thuận tánh Viên-giác” (tu Viên-Giác).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn nầy
Phật dạy tu theo “Viên-Giác”, có 5 từng bực:
1. Từng
bực thứ nhất, là quán các pháp đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không, nên
không sanh tâm tham, sân, si. Ba độc không sanh, thì ba nghiệp thân,
khẩu, ý chẳng tạo nghiệp. Vì không tạo nhiệp, nên không có cảnh
luân-hồi và người bị luân-hồi.
2. Trên
nói “cảnh bị biết” không, nói đến từng thứ hai là “cái tâm hay biết” cũng
như hư-không.
3. Ðến
từng thứ ba, là cái biết “cái tâm hay biết cũng như hư-không” cũng không
luôn.
4. Sợ
người lầm chấp cảnh-giới nầy không có cái biết, nên đến từng thứ tư, Phật
dạy tiếp: “không phải là không có cái biết”.
5. Ðến
từng thứ năm, Phật dạy phải rời các vọng-chấp “có” và “không”, mới nhập
được tánh viên-giác.
7. Phật
và Bồ Tát đều tu theo «Viên Giác»
Tại sao
thế? Vì trong Như-Lai-Tạng (Viên-Giác) không có sanh diệt, không có
thấy biết, như hư-không thường còn, chẳng lay động, như tánh của pháp-giới
viên-mãn khắp giáp cả mười phương.
Ðây gọi là
chỗ nhơn-địa tu-hành của Như-Lai, các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây mà phát
tâm thanh-tịnh tu theo Ðại-thừa. Chúng-sanh đời sau cũng phải y theo
đây tu-hành, mới khỏi đọa vào tà-kiến.
LƯỢC GIẢI
Như-Lai-Tạng
là tánh Như-Lai hàm chứa tất cả các pháp; cũng gọi là “Viên-Giác”, cũng kêu
là “Pháp-giới-tánh” (bản tánh của các pháp). Nó viên-mãn khắp-giáp cả
mười phương, không có sanh-diệt và cũng không tri-kiến, như hư-không thường
còn chẳng lay động.
Phật dạy:
Ðây là chỗ tu-hành của Như-Lai. Các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây phát
tâm thanh-tịnh tu Ðại-thừa. Chúng-sanh đời sau cũng phải y nơi đây
tu-hành mới khỏi lạc vào tà-đạo.
Ngài
Văn-Thù hỏi 2 câu:
1.
Nhơn-địa tu-hành của Như-Lai.
2.
Các vị Bồ-tát phát tâm Bồ-đề tu theo Ðại-thừa, làm sao phá trừ được
các vọng? Ðến đây Phật đã dạy xong.
8. Phật
nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi đó Ðức
Thế-Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng:
Văn-Thù!
Ông phải biết:
Chỗ
chơn-địa tu-hành
Của các đức
Như-Lai
Là dùng trí
Viên-giác
Phá trừ hết
Vô-minh:
Biết các
pháp hư-huyễn
Thì khỏi bị
luân-hồi.
Cũng như
người chiêm-bao,
Thức rồi
cảnh mộng hết.
Cái biết
cũng không còn
Sáng-suốt
khắp mười phương (Viên-giác),
Bình-đẳng
không chuyển-động,
Tức thì
thành Phật-đạo.
Các huyễn
diệt hết rồi,
Thành đạo
cũng không thành:
Xưa nay
tánh viện-mãn.
Bồ-tát y nơi đây,
Phát tâm đại Bồ-đề,
Các
chúng-sanh đời sau,
Tu đây mới
khỏi đọa.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài
kệ nầy: Các Ðức Phật dùng trí Viên-Giác phá trừ Vô-minh. Nghĩa
là: biết muôn vật đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không, không sanh tâm
nhiễm-trước, nên khỏi bị luân-hồi.
Người được
giác-ngộ rồi cũng như người thức giấc chiêm-bao: các cảnh vật đều không còn
- Cảnh “bị biết” đã không, nên “cái biết” (năng biết) cũng không. Vì
năng và sở đều không nên tánh Viên-giác mới hiện ra sáng-suốt chiếu khắp cả
mười phương, bình-đẳng không chuyển-động, như thể là “thành Phật”.
Nói “thành
Phật” là tạm nói mà thôi, thật ra cũng không “thành”. Vì tánh
“Viên-Giác” của mỗi người đều sẵn có, chỉ trừ hết “Vô-minh” rồi thì
“Viên-Giác” tự hiện ra, chớ có gì đâu mà gọi là “thành”.
Cũng như
người có sẵn hòn ngọc trong túi, chẳng qua vì quên, nên in như
mất. Ðến khi nhớ lại thì ngọc vẫn ở sẵn trong túi áo, chớ đâu phải mới
“đặng”. Bởi thế nên nói “thành đạo cũng không thành”.
Phật y theo
Viên-Giác nầy mà tu, Bồ-tát cũng y theo Viên-Giác nầy mà phát tâm Bồ-đề,
cho đến chúng sanh đời sau cũng phải y theo Viên-Giác nầy tu-hành mới khỏi
lạc vào tà-đạo.
▲ Trở Lên
|
Bài thứ hai
II. Chương Phổ Hiền
1.
Ngài Phổ Hiền hỏi Phật
2. Phật Khen Ngài Phổ Hiền
3. Phật trả lời cho ngài Phổ Hiền
4. Phật dạy pháp tu để nhập “Viên Giác”
5. Phật dạy pháp tu ly huyễn
6. Phật dạy “Giác ngộ” không có tuần tự, “rời huyễn” chẳng cần phương
tiện.
7. Phật nói bài kệ tóm lại nghĩa trên
II.
Chương Phổ Hiền
1. Ngài
Phổ Hiền hỏi Phật:
Khi ấy Ngài
Phổ Hiền Bồ tát, ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba
vòng rồi chắp tay đảnh lễ và quỳ thẳng bạch rằng:
- Bạch Ðức
Ðại bi Thế Tôn, xin Ngài vì các vị Bồ Tát ở trong hội này và tất cả chúng
sanh đời sau tu Ðại thừa, từ bi chỉ dạy phương pháp tu hành để vào cảnh giới
Viên Giác thanh tịnh.
Bạch Thế
Tôn, nếu chúng sanh biết các pháp đều như huyễn, thân và tâm này cũng
huyễn, thì cần gì phải tu? Tại sao còn dùng cái “huyễn” trợ lại tu
“pháp huyễn” làm gì?
Lại nữa,
nếu các pháp hư huyễn đều diệt hết, thì thân tâm này cũng diệt; nếu thân
tâm đều diệt thì lấy ai tu hành mà gọi là “tu pháp như huyễn”?
Bạch Thế
Tôn, nếu các chúng sanh không tu hành, vẫn ở mãi trong cảnh sanh tử
huyễn hóa mà chẳng tự biết, thì làm sao dẹp trừ các tâm vọng tưởng, để
giải thoát được sanh tử luân hồi?
Xin Phât vì
chúng sanh đời sau, chỉ dạy phương tiện tu tập và thứ lớp tu hành như thế
nào, để cho chúng sanh khi nghe đến cảnh giới Viên Giác thanh tịnh này, y
theo đó tu hành, vĩnh viễn xa lìa được các vọng huyễn.
Ngài Phổ
Hiền Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
Lược Giải
Ðại ý đoạn
này là Ngài Phổ Hiền Bồ tát hỏi Phật:
1.
Nếu tất cả chúng sanh biết các pháp đều như huyễn thì cần gì phải tu,
vì nó là huyễn. Tại sao còn dùng cái huyễn (thân tâm) tu pháp như
huyễn làm gì?
2.
Nếu chúng sanh chấp là huyễn mà không tu, thì vẫn ở mãi trong sanh tử luân
hồi, làm sao được giải thoát?
Xin Phật từ
bi chỉ dạy phương tiện tu hành và phải tu tuần tự như thế nào, mới nhập
được cảnh giới Viên Giác thanh tịnh?
2. Phật
khen Ngài Phổ Hiền
Khi đó Ðức
THế Tôn khen Ngài Phổ HIền Bồ tát và dạy rằng:
Này thiện
nam, quý lắm! Ông vì vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, hỏi về
phương tiện và thứ lớp tu tập pháp môn “như huyễn Tam muội”(1) của Bồ
Tát, khiến cho chúng sanh xa lìa các huyễn. Vậy các ông nên chăm chú nghe,
ta sẽ vì các ông khai thị.
___________
(1)
Chữ “Tam muội” Tàu dịch là “Ðịnh” hay “chánh thọ”. Vi nhiếp tâm chuyên
chú một chỗ, không có xao lãng, nên dọi là “Ðịnh” – Ngài Tôn Mật nói: “Rõ
thấu thân và tâm đều như huyễn, thầm hiệp với chơn như, như thế gọi là
“chánh thọ”.
Nghĩa bóng
bóng của chữ “Tam muội”, là chỉ cho công việc làm đã quán thuần thục. Nhưng
người niệm Phật, có khi niệm mà có lục lại quên, còn bị các vọng niệm xen
tạp, như thế là chưa được tam muội. Bao giờ người niệm Phật, chỉ ròng
rặc một niệm Phật thôi (nhứt tâm bất loạn) không có một niệm gì khác xen
vào, đi đứng nằm gnồi, bất luận chỗ nào hay lúc nào, từ năm này cho đến
tháng nọ, cũng vẫn nhớ niệm Phật, như thế gọi là được “niệm Phật tam muội”.
Khi đó,
Ngài Phổ Hiền Bồ Tát và đại chúng đều hoan hỷ, kín cẩn và chăm chú nghe lời
Phật chỉ giáo.
Lược Giải
Văn Thù và
Phổ Hiền là hai vị đại Bồ tát, ngài Văn Thù tiêu biểu cho đại
trí. Ngài Phổ HIền tiêu biểu cho đại hạnh. Có Ðại trí (căn bản
trí) mới phá trừ được căn bản vô minh. Có Ðại hạnh mới hoàn thành được
công hạnh của Phật. Người tu hành lúc nào cũng phải đủ cả “Trí và
Hạnh”. Có “Trí” mới phá đưọc vô minh và thấu rõ chơn lý. Có “hạnh” mới
đạt được chơn lý, hoàn thành quả Phật.
Ðoạn này
Phật khen ngài Phổ Hiền bồ tát, vì chúng sanh mà hỏi pháp tu “như huyễn tam
muội”
Chúng ta
quán các vật đều hư huyễn; nhưng có khi lại thấy là thiệt, như thế chưa
được “như huyễn Tam muội”. Bao giờ đi đứng nằm ngồi bất luận giờ phút
nào hay nơi nào cũng đều thấy các pháp hoàn toàn hư huyễn, như thế là chúng
ta được pháp “Như huyễn tam muội”.
3. Phật
trả lời cho ngài Phổ Hiền
-Này thiện
nam! tất cả các cảnh vật huyễn hóa (thế giới, chúng sanh) của chúng sanh,
đều sanh trong tâm Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai. Các pháp hư huyễn
có diệt, mà tánh Viên Giác vẫn không diệt. Cũng như đốm sanh trong hư
không, các hoa đốm hư huyễn kia có hoại diệt, mà tánh hư không chẳng hề
hoại diệt.
Lược Giải
Hoa đốm là
dụ cảnh vật, hư không là dụ Viên Giác. Ðại ý đoạn này là nói các pháp
giả dối hư huyễn giữa này, đều sanh trong Viên Giác (chơn tâm). Các
pháp hư huyễn diệt mà tâm Viên Giác không diệt. Cũng như cá hoa
đốm sanh trong hư không, các đốm có diệt mà hư không không diệt.
4. Phật
dạy Pháp Tu để nhập Viên Giác
Khi các
huyễn cảnh diệt rồi, thì cái huyễn tâm của hành giả cũng theo đó mà diệt
luôn. Ðến khi các huyễn (năng và sở) đều diệt hết, thì cái tâm Viên
Giác không vọng động tự hiện.
Bởi đối với
vọng huyễn mà nói “Viên Giác” nên Viên Giác cũng trở thành vọng huyễn, vì
còn ở trong vòng đối đãi vậy. Ðến cảnh giới này, nếu nói “có viên
Giác” thì chưa rời vọng huyễn đã đành, mà nói là “không Viên Giác” thì cũng
chẳng rời được vọng huyễn.
Thế nên,
các vọng huyễn (có và không) đều phải bị diệt hết rồi, mới gọi là Viên
Giác.
Lược Giải
Ðoạn này lý
lẽ uyên thâm, có 5 từng:
1.
Huyễn cảnh diệt
2.
Huyễn tâm cũng diệt
3.
Các huyễn (năng, sở) diệt hết, tâm “Viên giác hiện bày.
4. Bởi
đối vọng huyễn mà gọi “viên giàc” nên Viên Giác cũng trở thành hư
huyễn. Vì còn ở trong vòng dối đãi phân biệt, nên chưa phải là “Viên
Giác”.
5. Nếu
“chấp có Viên Giác” thì ở trong vòng vọng huyễn mà “chấp không Viên Giác”
cũng còn ở trong vòng vọng huyễn. Các vọng huyễn: có, không sanh,
diệt, phải chẳng v..v.. đều phải diệt hết rồi, thế mới đúng là “Viên
Giác”.
Ðại ý đoạn
này nói: “Tánh Viên Giác” (Chơn tâm) không thể dùng lời nói mà luận bàn
được, cũng không dùng ý nghĩ mà suy nghĩ được. Nếu vừa móng tâm động niệm,
nghĩ thánh nói phàm, cho thế này là vọng, thế kia là chơn, như thế là hãy
còn trong vòng đối đãi, hễ còn đối đãi phân biệt, thì đều là vọng huyễn cả:
phải rời hết các vọng huyễn mới đúng là “viên Giác”.
5. Phật
dạy Phương pháp ly huyễn
Này Thiện
Nam! Tất cả các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, cần phải xa lìa các việc
như sau:
1. Xa
lìa các cảnh giới huyễn hóa hư vọng. Nhưng còn cái “Tâm biết xa lìa”
2. Cái
“Tâm biết xa lìa” đó cũng là huyễn, nên cũng xa lìa luôn.
3. Cái
“xa lìa” đó cũng là huyễn, nên cũng phải xa lìa
4. Cái
“lìa cái xa lìa” cũng là huyễn nên cũng phải xa lìa luôn
5. Phải
không còn cái gì để “xa lìa” nữa, như thế mới gọi là trừ được các huyễn.
Tỷ như
người kéo củi lấy lửa, dùng hai miếng củi tre cọ xát nhau; cọ cho đến khi
lửa phát ra, trở lại cháy hai miếng tre; cháy đến lúc củi hết, lửa tàn tro
bay, bấy giờ chỉ còn đất trống.
Dùng “cái
huyễn” tu các “pháp huyễn” cũng thế. Khi các huyễn diệt hết rồi, không phải
là đoạn diệt mà lúc bấy giờ tánh Viên Giác tự hiện bày.
Lược Giải
Ðại ý đoạn
này nói: người tu hành trước hết phải lìa các huyễn cảnh, sau lìa huyễn
tâm; lìa cho đến không còn cái gì để lìa nữa, thế mới là lìa được hết các
huyễn. Lúc bấy giờ cái phi huyễn là “viên giác tánh” hiện ra. Như thế
thì “Viên Giác tánh” không phải là đoạn diệt.
Như người
kéo lửa (dụ cho tu như huyễn) ban đầu dùng hai miếng củi tre cọ nhau
(dụ cho tâm và cảnh), khi lửa phát ra trở lại cháy hết củi đến lúc lửa tàn
tro bay (tâm cảnh đều hết), bấy giờ chỉ còn đất trống (dụ cho Viên
Giác).
6. Phật
dạy: “Giác Ngộ” không có tuần tự, “rời huyễn” chẳng cần phương tiện
-Này thiện
nam! Khi biết được các pháp hư huyễn, tức là lìa được các huyễn, chớ
không cần phải có phương tiện gì khác. Lìa được các huyễn tức là “giác”
cũng không có lớp lang tuần tự gì.
Tất cả Bồ
tát và chúng sanh đời sau, y như thế mà tu hành, mới xa lìa được các huyễn
Lược Giải
Phật dạy
người biết được các pháp là hư huyễn thì không còn cố chấp và tham luyến
các pháp nữa, tức là lìa được các huyễn rồi, chớ không có phương pháp tu
tập nào khác.
Câu này
giống như câu trong Kinh Lăng Nghiêm: “Giác mê, mê diệt” (Giác ngộ được cái
mê, thì cái mê ấy hết) Cũng như người khi biết mình là chiêm bao, thì không
còn chiêm bao nữa.
Lìa được
các vọng huyễn, tức thì “Viên Giác” hiện bày, thế nên không có lớp lang
từng bực. Dụ như khi ánh sáng đến, thì cái tối liền diệt; tối vừa diệt thì
sáng vừa hiện, không có lớp lang từ tự chi hết.
Ðoạn trước
Ngài Phổ Hiền có hỏi thức lớp tu pháp môn như huyễn thế nào. Ðến đoạn này
Phật trả lời đã xong.
7. Phật
Nói Bài kệ Tóm lại các nghĩa
Khi ấy Ðức
Thế Tôn muốn tóm lại nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:
Phổ Hiền!
Ông nên biết
Các vô minh
huyễn hóa
Của tất cả
chúng sanh,
Từ vô thỉ
đến giờ,
Ðều sanh
trong Viên Giác
Của các Ðức
Như Lai
Cũng như
các hoa đốm
Sanh trong
thái hư không
Hoa đốm
diệt hết rồi,
Hư không
vẫn trong tịnh,
Các huyễn
từ “Giác” sanh,
Huyễn diệt,
“Giác” viên mãn
Viên Giác
không vọng động
Các Bồ tát
hiện tại
Và chúng
sanh đời sau
Thường phải
xa lia huyễn.
Xa lìa cho
hết huyễn
Như lửa từ
cây sanh
Trở lại cháy
hết cây;
Lửa tàn tro
bay tận.
“Giác ngộ”
không tuần tự
“Phương
tiện” cũng không cần.
Lược Giải
Ðại ý bài
kệ này Phật dạy: Các vô minh vọng huyễn của chúng sanh từ vô thỉ đến giờ,
đều sanh trong tâm Viên Giác của Như Lai. Ðến khi các vô minh vọng
huyễn diệt rồi, thì tâm “Viên Giác” hiện ra, khôngc có tuần tự và cũng
không cần có phương tiện gì khác.
Dụ như hoa
đốm sanh trong hư không, khi hoa đốm diệt hết thì hư không tự trong
tịnh. Và như lửa từ trong cây sanh, trở lại đốt cháy cây, đến khi củi
hết lửa tàn, khói tan tro tận, lúc bấy giờ chỉ còn bầu trời trong suốt.
Lưu Ý
Trong
chương Phổ Hiền này, chúng ta nên lưu ý về câu hỏi của Ngài Phổ Hiền và lời
đáp của Phật, vì rất quan hệ đến đời tu hành của chúng ta.
Ngài Phổ
Hiền hỏi rằng: “Ðã là huyễn thì cần gì phải tu? Tại sao còn dùng thân tâm
như huyễn để tu hành như huyễn?” - Ðoạn này chúng ta hiểu lầm, thì không
sao khỏi sanh ra những vọng chấp: “Thân huyễn, cảnh huyễn, tu học cũng
huyễn v.v...” rồi trăm việc lành đều bỏ xuôi, thật là nguy hiểm vô cùng.
Vậy ta cần
phải xét kỹ về đoạn trả lời của Phật. Ðại ý Phật dạy rằng: Tuy biết các
pháp là “huyễn” nhưng cần phải tu mới đạt đến chỗ “phi huyễn”
(Chơn). Cũng như: vẫn biết không có “tiếng gõ bảng” của thầy giáo thì
không sao dẹp được hết tiếng ồn ào của học trò. Ðến khi hết tiếng ồn
ào của học trò thì tiếng gõ bảng cũng không cần nữa.
Tổ sư đã
dạy: “hữu vị tuy nguy, xả chi tắc Phật đạo nan thành”; nghĩa là các việc tu
hành đều thuộc về hữu vi phá, tuy biết là vọng, nhưng nếu bỏ đi không tu thi
khó thành đạo Phật. Cổ nhơn dạy: “Ðạp gai lấy gai mà lể” hay là “phải
dùng giặc để dẹp giặc” cũng là nghĩa ấy.
Vẫn biết
“Viên Giác” tánh “Không phải huyễn, nhưng muốn nhập viên giác thì phải dùng
huyễn để trừ huyễn. Khi các huyễn diệt hết, thì tánh “Viên Giác” mới
hiện
Cổ Ðức dạy:
“thật tế lý địa bất thọ nhứt trần, vạn sự môn trung bất xả nhứt pháp”,
nghĩa là: về chỗ lý tánh chơn thật (Viên Giác) thì khôgn thọ một mảy trần;
nhưng về sự tướng tu hành, thì không bỏ một việc nhỏ.
Ðây là một
quy tắc từ nghìn xưa. Những vị tu hành được thành đạo quả, không một
ai vượt qua ngoài quy tắc này.
▲
Trở Lên
|
Bài thứ ba
III. CHƯƠNG PHỔ NHÃN
1. Ngài Phổ
Nhãn hỏi Phật
2. Phật khen ngài Phổ Nhãn
3. Phật dạy phương pháp tu
4. Phật dạy quán “Thân” như huyễn
5. Phật dạy quán “Tâm” như huyễn
6. Huyễn hết thì chơn hiện
7. Dùng ngọc Ma ni dụ tánh Viên Giác
8. Vì có kẻ lìa huyễn và người chưa lìa được, nên phân ra có Thánh và Phàm
9. Viên Giác hiện, thì các pháp đều thanh tịnh
10. Vì hiện tượng bình đẳng nên bản thể bình đẳng
11. Bàn thể và hiện tượng khắp cả mười phương.
12. Vì chứng Viên Giác nên thấy các Pháp bình đẳng
13. Tu và chứng mà thật ra không có tu và chứng
14. Sanh tử và Niết bàn đều như mộng
15. Các pháp bình đẳng
16. Tóm lại
17. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
CHƯƠNG PHỔ
NHÃN
1. Ngài
Phổ Nhãn hỏi Phật
Khi ấy ngài
Phổ Nhãn bồ tát, ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba
vòng, rồi chắp tay đảnh lễ và quỳ thẳng bạch rằng:
-Bạch Ðức
Thế Tôn, xin Ngài vì các vị Bồ tát ở trong hội này và tất cả chúng sanh đời
sau, giảng dạy thứ lớp tu hành của Bồ tát.
Bạch Thế
Tôn, như chúng sanh kia, khi nghe Phật nói Pháp “ly huyễn tam muội” này,
tâm sanh mê muội, vì không biết làm sao để hạ thủ công phu. Vậy, nếu
không có phương tiện chơn chánh và suy nghĩ chơn chánh, thì không thể ngộ
nhập được Viên Giác.
Xin Ngài mở
lòng từ bi, vì những người chưa ngộ như chúng con hiện tại và các chúng
sanh đời sau, tạm lập ra các phương tiện: Phải tu hành thế nào? Phải
suy nghĩ (tư duy) làm sao? Phải an trụ và giữ gìn (trụ trì) thế nào
mới được ngộ nhập Viên Giác?
Ngài Phổ
Nhãn Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lễ Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trước
Ngài Phổ Hiền Bồ tát hỏi Phật, ý hỏi rất u thâm - Phật xứng theo lý Viên
đốn mà trả lời rằng: “Giác ngộ, không có từng tự; biết huyễn là lìa được
huyễn, không cần phương tiện.”
Ngài Phổ
Nhãn Bồ tát, vì thấy Phật nói Pháp môn “Viên đốn” như thế, nghĩ rằng: duy
có những người trình độ cao thượng mới có thể làm được; trái lại những kẻ
căn cơ thấp kém, nếu không có tạm lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp tu
hành thì làm sao ngộ nhập được. Vì vậy, nên qua chương này, Ngài PHổ
Nhãn Bồ tát cầu Phật tạm lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp tu hành, để cho
chúng sanh có thể hạ thủ công phu, nhập được Viên Giác.
Tóm lại các
câu hỏi của Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật, gồm trong hai phần:
1. Hỏi về
“Tư Huệ” tức là câu hỏi “phải suy nghĩ thế nào cho chơn chánh?”
2. Hỏi về
“Tu Huệ” tức là câu hỏi “phải an trụ và giữ gìn thế nào? Tạm lập phương
tiện tu hành và thứ lớp tu làm sao, mới ngộ nhập được Viên Giác”?
*****
2. Phật
Khen Ngài Phổ Nhãn
Khi đó đức
Thế Tôn khen Ngài Phổ Nhãn Bồ tát và dạy rằng:
-Này thiện
nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau,
cầu thỉnh Như lai tạm lập phương tiện tu hành và chỉ dạy thứ lớp tu làm
sao, phải suy nghĩ làm sao cho chơn chánh (tư huệ), phải an trụ và giữ gìn
thế nào (tu huệ). Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông khai
thị.
Khi đó Ngài
Phổ Nhãn Bồ tát và đại chúng đều hoan hỷ, kính cẩn và chăm chú nghe lời
Phật chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật khen ngài Phổ Nhãn vì đại chúng cầu Phật tạm lập phương tiện tu hành
để nhập Viên Giác. Trong câu hỏi gồm có hai phần: 1. Hỏi về Tư huệ, 2.
Hỏi về tu huệ
**
3. Phật
dạy Phương pháp tu
-Này Thiện
Nam, những hàng sơ học Bồ tát và các chúng sanh đời sau, muốn ngộ nhập tâm
Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, thì cần phải Chánh niệm(1), và xa lìa các
vọng huyễn. Vậy trước hết phải:
1. Y theo
pháp “chỉ” của Như Lai (Ðại thừa định)
2. Giữ gìn
giới cấm kiên cố
3. Sắp
xếp đồ chúng cho yên ổn (sắp xếp hoàn cảnh xung quanh cho thuận tiện)
4. Ở chỗ
thanh vắng
5. Phải
suy nghĩ như sau:
LƯỢC GIẢI
Tổ sư dạy:
“Thật tế lý địa bất thọ nhứt trần, Phật sự môn trung bất xả nhứt
pháp”. Nghĩa là: Về chỗ lý tánh tuyệt đối thì không thọ một mảy may
gì; nhưng về sự tướng tu hành thì không bỏ một việc lành nào cả.
Ðành rằng,
về cảnh giới Viên Giác, chúng ta nói không trúng, suy nghĩ cũng nhằm; “giác
ngộ” không có tiêm thứ, “rời huyễn” chẳng cần phương tiện; nhưng khi
hạ thủ công phu (bắt tay vào việc tu hành) thì không thể bỏ qua các sự
tướng tu trì.
Ðại ý đoạn
này Phật dạy khi hạ thủ công phu, trước phải dụng: 1. Giới, 2. Ðịnh (chỉ),
3. Huệ (tức là câu “thường suy nghĩ như vậy” ở đoạn sau), 4. Sắp xếp các
ngoại duyên cho được yên ổn.
Trong
chương PHổ Hiền, Phật dạy: “Biết huyễn là lìa được huyễn, không cần phương
tiện chẳng có tiệm thứ”. Ðồng với trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy:
“bất tùy phân biệt” (không theo trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt).
Ðoạn kinh
này, Phật dạy phải dùng: “Giới, Ðịnh, Huệ, và sắp xếp các ngoại duyên cho
được thuận tiện”. Cũng như trong Ðại cương Lăng Nghiêm về bài thứ 12,
Phật dạy tu “Giới, Ðịnh, Huệ” và “ba món tiệm thứ”.
**
4. Phật
dạy Quán thân này như huyễn
-Phải
thường nhớ nghĩ như vầy: Cái thân của ta nay đây, là do bốn chất: đất,
nước, gió, lửa hòa hiệp. Như da, thịt, gân, xương, răng, tóc, móng tay,
tủy, não v.v… là thuộc về nước; nhiệt độ trong người là thuộc về lửa; phổi
hô hấp, tim đập, mạch nhảy, các chuyển động trong người là thuộc về gió.
______
(1) Chữ
“Chánh niệm” là niệm chơn chánh. Trong Viên Giác lược sở giải: Rời các
vọng huyễn, dứt hết các vọng niệm thế mới là: “chánh niệm”
Ðến khi bốn
chất này rã rời, không còn hòa hợp nữa, thì cái thân hư dối này (cái ta) ở
chỗ nào?
LƯỢC GIẢI
Người đời,
ai cũng chấp thân này là ta, rồi thương yêu quý trọng nó, cho nên suốt đời
lao tâm nhọc trí, vật lộn với vật chất một cách vất vả, cũng vì lo cho ta
ăn, mặc và ở v.v... Lo cho ta rồi lo cho bà con quyến thuộc của ta, lo cả
cho đồng bào chủng loại của ta.
Nếu ta được
là người mất, đồng bào ta được thì đồng bào người phải bị mất. Vì vậy
mà thế giới chiến tranh, nhơn loại tương tàn tương sát. Chúng sanh tạo
không biết bao nhiêu điều tội lỗi, rồi vĩnh kiếp luân hồi.
Bởi thế nên
đoạn này Phật dạy, khi hạ thủ công phu là quán thân như huyễn (vô
ngã). Khi đã thấy xác thật thân này là hư huyễn rồi, thì không còn
tham lam luyến ái, vì nó mà tạo ra các tội lỗi, để rồi thọ quả báo sanh tử
luân hồi.
Muốn cho
độc giả thưởng thức được lý thú ở đoạn này, nên tôi dẫn một đoạn trong bài
thơ “Nguyện cầu” của một thi sĩ sau đây:
Ta còn để lại gì không?
Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi!
Lang thang
từ độ luân hồi
U minh nẻo
trước, xa khơi dặm về
Trông ra
bến thảm bờ mê
Nghìn thu
nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát
bụi trên đường
Dù nhơ dù
sạch, đừng vương gót này.
*
5. Phật
dạy quán tâm như huyễn
-Này Thiện
nam! ông đã biết thân này rốt ráo không thật có, chẳng qua do các duyên hòa
hiệp làm ra thân tướng giả tạm, đồng với loại huyễn hóa.
Do bốn
duyên là đất, nước, gió, lửa hòa hợp, nên vọng có sáu căn là mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý. Nhơn bốn duyên và sáu căn, trong ngoài hợp lại thành
cái thân giả tạm, rồi vọng khởi ra các vọng tưởng phân biệt. Các vọng
tưởng phân biệt tích tụ trong thân này in như có cái hình tướng “năng
duyên”, duyên theo bóng dáng của trần cảnh, nên giả gọi đó là “Tâm”.
-Này Thiện
nam! cái tâm hư vọng phân biệt này, nếu không có trần cảnh thì không còn
phân biệt được cái gì cả. Lại nữa, khi bốn duyên (tứ đại) rã rời rồi,
thì thân giả tạm này cũng không còn. Lúc bấy giờ, cái vọng niệm phân
biệt bị tích tụ trong thân thường duyên theo bóng dáng của sáu trần đó, cũng
bị phân tán. Rốt cuộc rồi không còn thấy có cái gì mà gọi là “Tâm” cả.
LƯỢC GIẢI
Về chương
Văn Thù, Phổ Hiền, Phật dạy quán “Cảnh như huyễn”, đến chương Phổ Nhãn này,
trước Phật dạy quán “Thân như huyễn” rồi sau quán “Tâm như huyễn” là vì lối
tu hành phải bắt đầu từ dễ đến khó, từ cạn đến sâu. Trước quán “cảnh như
huyễn” tuy khó, nhưng chưa khó lắm, đến quán “Thân như huyễn” mới là khó
hơn. Ði sâu vô một từng nữa là quán “Tâm như huyễn” lại càng khó hơn
nữa.
Ðại ý đoạn
này, Phật dạy quán “Tâm như huyễn”, không có thật thể. -Người đời thường
chấp tâm này (linh hồn) là ta, cái ta này thường còn không biến đổi; nếu ta
(linh hồn) là người thì khi chết rồi trở lại làm người; còn ta là thánh thì
chết rồi trở lại làm thánh, không có thay đổi; người có tu không sợ tội
lỗi, chẳng ham phước lành, gây tạo nhiều tội ác rồi nhiều kiếp trầm luân,
chịu không biết bao nhiêu khổ sở.
Vì thương
kẻ mê lầm này, nên Phật dạy quán “Tâm như huyễn”. Khi hành giả quán thân và
tâm (linh hồn) đều như huyễn, không phải thật ngã (ta) một cách xác thật
rồi, thì không còn vì nó mà tạo các tội lỗi. Tội lỗi không tạo, vọng
niệm chẳng sanh, huyễn thân và huyễn tâm đều dứt hết, thì tánh Viên Giác,
thanh tịnh không hư huyễn hiện ra, lúc bấy giờ hành giả ra khỏi sanh tử
luân hồi.
6. Huyễn
hết thì chơn hiện, như bụi sạch thì gương sáng
-Này Thiện
nam! Vì “huyễn thân” của chúng sanh kia diệt, cho nên “huyễn tâm”
cũng diệt; do “huyễn tâm” diệt, cho nên cái “huyễn trần” cũng diệt; do
“huyễn trần” diệt, nên cái “huyễn diệt” đó cũng diệt luôn. Bởi
thâm tâm là tướng trần cấu hư huyễn đã hoàn toàn diệt, nên lúc bấy giờ tánh
“Viên Giác phi huyễn” hiện ra, thanh tịnh khắp cả mười phương. Thí như
lau gương khi bụi hết thì gương sáng tự hiện bày.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này Phật dạy các huyễn tuần tự diệt. Có năm lớp:
1. Huyễn
Thân diệt
2. Huyễn
Tâm diệt
3. Huyễn
Trần (pháp) diệt
4. Huyễn
Trí diệt
5. Phi
Huyễn (Viên Giác) hiện
Như lau
gương sạch bụi thì ánh sáng hiện ra.
*******
7. Dùng
ngọc Ma-Ni dụ tánh Viên Giác
-Này Thiện
Nam! Dụ như ngọc Ma-ni trong sáng, tùy mỗi phương chiếu hiện ra năm
màu; nhưng người quê mùa không biết, cho năm màu (dụ cho ngũ uẩn) kia là
thật có.
Tánh Viên
Giác thanh tịnh cũng thế, tùy các loại mà ứng hiện ra mỗi thân tâm (ngũ
uẩn) không đồng. Những kẻ mê muội lại chấp cho thân tâm đó là thật
có, vì thế nên không thể xa lìa được các tướng huyễn hóa hư vọng.
LƯỢC GIẢI
Luận về
“bản tánh Viên Giác” thì sáng suốt thanh tịnh không có một mảy trần, tức là
nghĩa “chơn không”; nhưng tùy theo nghiệp mà biến hiện, không một loài vật
nào chẳng có, tuy có mà không thật có, tức là nghĩa “diệu hữu”.
Tánh Viên
Giác không hai, nhưng tùy theo vọng nghiệp của mỗi loại mà biến hiện các
vật ngàn sai muôn khác. Người khéo dùng thì nó hiện ra Tứ Thánh (Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật). Kẻ vụng dùng thì nó hiện ra lục phàm
(Thiên, Nhơn, A-Tu-La, Ðịa ngụ, ngạ quỷ, súc sanh). Cũng như trong
kinh Lăng Nghiêm Phật dùng giây đờn thí dụ: trong giây đờn không có tiếng
hay tiếng dở; tùy người biết sử dụng thì nó phát ra tiếng hay, còn người
không biết sử dụng thì nó phát ra tiếng dở. Cũng một giây đờn đó, hay
dở chỉ tại người khéo hay vụng mà thôi.
Ðoạn kinh
trên nói: “Ngọc Ma-ni trong suốt là dụ cho tánh “Viên Giác thanh tịnh”; nói
“ngọc Ma-ni tùy mỗi phía hiện ra ngũ sắc” là dụ cho tánh “Viên Giác tùy mỗi
loại hiện thân ngũ uẩn”.
Ðại ý đoạn
này nói “Trong ngọc Ma-ni trong suốt không có ngũ sắc, nhưng vì tùy mỗi
phương, ánh chiếu in như có ngũ sắc. Trẻ con không biết, lầm tưởng ngũ
sắc kia là thật có, rồi sanh tâm tham muốn khóc đòi v.v... chớ đâu biết
rằng “ngũ sắc” kia không thật. Cũng như trong tánh Viên Giác thanh
tịnh không có ngũ uẩn, nhưng tùy theo nghiệp chúng sanh vọng thấy in như có
năm uẩn. Chúng sanh mê muội không biết hư huyễn, lại chấp cho là thật có,
rồi sanh tham mê ái luyến, tạo ra các nghiệp. Vì thế mà bị triền miên
trong sanh tử, không bao giờ ra khỏi các vọng huyễn.
*********
8. Vì có
kẻ lìa huyễn và người chưa lìa được, nên phân có thánh và phàm
-Này Thiện
nam! Bởi đối với những kẻ mê muội chấp thân tâm huyễn cấu này là thật
có, không thể xa lìa được, nên ta gọi đó là chúng sanh.
Ðối với
người đã xa lìa được thân tâm cấu huyễn thì ta gọi đó là Bồ tát. Ðến khi
các “huyễn cấu” hết, “pháp đối trị” trừ, “trí đối trị” cũng không, cho đến
không còn danh từ để kêu gọi, và lời nói để luận bàn (người không cảnh
vắng, các vọng hoàn toàn diệt, thì tạm gọi là Viên Giác hay Phật).
-Này Thiện
nam! Các Bồ tát và chúng sanh đời sau, khi diệt hết các ảnh tượng vọng
huyễn rồi thì tánh “Viên giác thanh tịnh” hiện ra, khắp cả vô biên hư
không, không có ngằng mé và phương hướng.
LƯỢC GIẢI
Những người
mê muội, không biết các pháp đều do tánh VIên Giác huyễn hiện, lại chấp cho
là thật có, rồi sanh ra ái luyến triền miên, nên Phật gọi là “chúng
sanh”. Những người biết được các pháp hư huyễn đều do Viên Giác sanh,
đã dùng pháp đối trị và xa lìa, thì Phật gọi đó là “Bồ tát”. Lên một
từng nữa là khi các “cảnh huyễn cấu” hết “pháp trừ huyễn” không, “trí đối
trị” chẳng còn, “danh từ kêu gọi” và “lời nói luận bàn” cũng không, cho đến
“người” cũng chẳng còn: cảnh vắng người không. Như bệnh hết, thuốc
bỏ, ông thầy thuốc cũng không còn. Các vọng huyễn hoàn toàn diệt hết,
thì cảnh giới Viên Giác thanh tịnh viên mãn hiện khắp ở mười phương, lúc
bấy giờ tạm gọi là “Phật”.
9. Viên
Giác Hiện thì các pháp (căn, trần, thức) đều thanh tịnh
-Này thiện
nam! Vì tánh Viên Giác thanh tịnh sáng suốt đã hiện ra nên “tâm” thanh
tịnh: do Tâm thanh tịnh nên “6 thức” thanh tịnh; do 6 Thức thanh tịnh nên
“6 căn” thanh tịnh; do 6 căn thanh tịnh nên “6 trần” thanh tịnh; do 6 trần
thanh tịnh nên 4 đại, 12 xứ, 18 giới và 25 loài đều thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này nói: vì tánh Viên giác thanh tịnh đã xuất hiện, nên các pháp thuộc về
thế gian là Căn, Trần, Thức cũng đều thanh tịnh. Dụ như trong rừng cây
y lan (loại cây hồi), một phen gỗ chiên đàn xuất hiện, thì cả rừng đều thơm
ngát.
Sáu
thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức
Sáu
căn: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn và Ý căn.
Sáu trần:
Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
Bốn đại:
Ðịa, Thủy, Hỏa và Phong.
Mười hai
xứ: Sáu căn và sáu trần
Mười tám
giới: 6 Căn, 6 Trần và 6 Thức.
25 loài:
Cõi Dục có 14 loài, là bốn châu (Ðông Thắng thần châu, Nam Thiêm bộ châu,
Tây Ngưu hóa châu, Bắc Cu lô châu); bốn ác thú (Tu la, Ðịa ngục, ngạ quỷ,
Súc sanh (và sáu cõi Dục (1.Tứ Thiên vương, 2. Ðao lợi, 3. Dạ ma, 4.
Ðâu suất, 5. Hóa lạc, 6. Tha hóa, tự tại) Cõi Sắc có 7 loài, là bốn cõi
Thiền (từ Sơ thiền đến Tứ thiền) cõi Phạm vương, cõi vô tướng và Ngũ tịnh
cư. Cõi Vô sắc có bốn: 1. Không Vô biên xứ, 2. Thức vô biên xứ, 3. Vô
sở hữu xứ, 4. Phi phi tưởng xứ.
*
-Này Thiện
Nam! Vì các pháp thế gian thanh tịnh, nên các pháp xuất thế gian như:
10 lực, 4 món Vô úy, 4 món Vô ngại trí, 18 pháp Bất cọng, 37 phẩm Trợ đạo
và 84000 pháp môn Ðà la ni, tất cả đều thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này nói: Một pháp đã thanh tịnh, nên tất cả các pháp đều thanh tịnh, vì tất
cả đều đồng tánh Viên Giác. Thí như một cục phèn bỏ vào thau nước, một
chỗ trong thì cả thau đều trong.
Ðoạn trên
nói các pháp Thế gian thanh tịnh. Ðoạn này nói các pháp Xuất thế gian
cũng thanh tịnh.
Mười lực:
1. Tri giác xứ phi xứ trí lực. 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực; 3. Tri
chư thiền giải thoát tam muội trí lực; 4. Tri chưa căn thẳng, liệt trí lực;
5. Tri chủng chủng giải trí lực; 6. Tri chủng chủng giới trí lực; 7. Tri
nhứt thế chi sở đạo trí lực; 8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực; 9. Tri túc
mạng vô lậu trí lực; 10. Tri Vĩnh đoạn tập khí trí lực.
Bốn món Vô
úy: 1. Nhứt thế trí vô sở úy; 2. Lậu tận vô sở úy; 3. Thuyết chướng đạo vô
sở úy; 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy.
Bốn món Vô
ngại trí: 1. Pháp vô ngại trí; 2. Nghĩa vô ngại trí; 3. Từ vô ngại trí; 4.
Lạc thuyết vô ngại trí.
Mười tám
pháp Bất cọng: 1. Thân vô thất; 2. Khẩu vô thất; 3. Niệm vô thất; 4. Vô dị
tưởng; 5. Vô bất định tâm; 6. Vô bất tri dĩ; 7. Dục vô diệt; 8. Tinh tấn vô
diệt; 9. Niệm vô diệt; 10. Huệ vô diệt; 11. Giải thoát vô diệt; 12. Giải
thoát tri kiến vô diệt; 13. Nhứt thế thân nghiệp tùng trí huệ hành; 14.
Nhứt thế khẩu nghiệp tùng trí huệ hành; 15. Nhứt thế ý nghiệp tùng trí huệ
hành; 16. Trí huệ tri quá khứ thế vô ngại; 17. Trí huệ tri vị lai thế vô
ngại; 18. Trí huệ tri hiện tại thế vô ngại.
Ba mươi bảy
Phẩm trợ đạo (xem Phật Học Phổ Thông, khóa III bài Ðạo Ðế nói rõ)
Ðà La Ni: Tàu dịch là “Tổng trì”. Nghĩa là ở trong mỗi một pháp
môn tóm giữ được tất cả Pháp. Do trừ 84000 phiền não mà được 84000
pháp Ðà La Ni.
*****
Này Thiện Nam! Vì các pháp thế gian và xuất thế gian đều thanh
tịnh, nên các nhân thanh tịnh; do cá nhân đã thanh tịnh nên nhiều cá nhân
thanh tịnh, cho đến mười phương chúng sanh đều đặng Viên Giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Chánh báo chúng sanh thanh tịnh. Vi đã đồng tánh Viên
Giác, nên các pháp nói trên đã thanh tịnh, thì thân chúng sanh cũng thanh
tịnh. Cũng một ý này, nhưng có kinh lại nói một cách khác: “còn một
chúng sanh nào chưa thành Phật thì ta cũng chưa thành Phật”, vì đồng một
bản thể vậy.
-Này Thiện Nam! Vì một thế giới đã thanh tịnh, nên nhiều thế giớ
cũng thanh tịnh. Vì nhiều thế giới thanh tịnh nên cùng tận 10 phương
hư không (không gian) trùm khắp 3 đời (thời gian), tất cả đều thanh tịnh
bình đẳng không động.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Y báo của chúng sanh thanh tịnh. Vì đồng tánh Viên
Giác, nên Chánh báo đã thanh tịnh thì Y báo cũng thanh tịnh. Cũng như
trong nhà tối lâu đời, khi đốt lên một ngọn đèn, ánh sáng được xuất hiện,
một chỗ từ vừa sáng thì tất cả chỗ trong nhà đều sáng.
**
10. Vì thấy hiện tượng (các pháp) bình đẳng nên biết bản thể (Viên
Giác) bình đẳng
-Này Thiện Nam! Hư không đã bình đẳng không động, nên biết tánh
Viên Giác bình đẳng không động, vì bốn đại bình đẳng không động, nên biết
tánh Viên Giác bình đẳng không động. Như thế, cho đến 84000 pháp
môn Ðà La Ni đều bình đẳng không động, nên biết tánh Viên Giác bình đẳng
không động.
LƯỢC GIẢI
Từ bản thể là tánh Viên Giác, sanh ra các pháp hiện tượng là hư không,
bốn đại và thiên hình vạn trạng cho đến 84000 pháp Ðà La Ni. Hiện
tượng đã từ bản thể sanh mà hiện tượng đã bình đẳng không động, cố nhiên
bản thể cũng bình đẳng không động.
**
11. Bản thể (tánh) khắp cả 10 phương, nên hiện tượng khắp cả 10
phương
Này Thiện Nam! Vì tánh Viên Giác thanh tịnh không động, viên mãn
cùng khắp tất cả, không có bờ bến, nên biết 6 căn, 6 trần, 4 đại, cho đến
pháp môn Ðà La Ni cũng thanh tịnh và viên mãn khắp cả pháp giới.
Này thiện nam! Vì tánh Viên Giác kia mầu nhiệm viên mãn không
hoại, nên bản thể của căn, bản thể của trần, không có một pháp nào hoại
diệt và lộn lạo; cho đến pháp môn Ðà La Ni, cũng không có hoại diệt và lộn
lạo. Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng
của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn
diệt nhau.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này có hai phần. Phần trên nói: Vì bản thể là tánh Viên Giác
châu biến, nên hiện tượng là các pháp cũng châu biến. Ðại ý phần này
giống đoạn văn trong kinh Hoa Nghiêm nói về “Sự, Lý vô ngại Pháp giới”
Phần dưới nói: Vì bản thể không hoại diệt nên tất cả các pháp không có
một pháp nào hoại diệt. Thí như trăm ngàn ngọn đèn chiếu trong một
nhà, không có lộn lạo và hoại diệt nhau. ý đoạn này giống với đoạn
văn trong Kinh Hoa Nghiêm nói về “Sự, Lý vô ngại Pháp giới”. Trong
kinh Pháp Hoa chép: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (Pháp
nào an trụ địa vị pháp ấy. Thế gian tướng là thường trụ tướng). Và
Kinh Lăng nghiêm có chép” Tứ đại châu biến không có hoại diệt và tạp loạn
lẫn nhau”.
***
12. Vì chứng được viên giá nên thấy các pháp bình đẳng
-Này Thiện nam! Vì các Bồ tát thành tựu được tánh Viên Giác rồi,
nên không sợ pháp hữu vi ràng buộc, không cầu pháp vô vi giải thoát, không
nhàm chán sanh tử, không ưa thích Niết Bàn, không kính người trì giới,
không ghét người phạm giới, không tôn trọng kẻ tu lâu, chẳng khin người mới
học. Tại sao thế? -Vì tất cả cá pháp đều là Viên Giác vậy.
Thí như con mắt xem thấy các cảnh vật hiện tiền, cái “thấy” này trùm
khắp tất cả, không thương, ghét. Tại sao thế? Vì cái “thấy” này
chỉ có một thể, nên không có thương, ghét vậy.
LƯỢC GIẢI
Vì tất cả các pháp đã đồng một tánh Viên Giác, nên Bồ tát bình đẳng:
không thương không ghét, không khinh không trọng, không sợ sanh tử, chẳng
cầu Niết bàn. Ðoạn này lý rất cao thâm, chúng ta không nên đem phàm tình mà
phán đoán.
Ông Thường Bất Khinh Bồ tát nói: “Tôi không dám khinh các Ngài, các
Ngài sẽ thành Phật vì các Ngài đều có tánh Phật” (Khả năng thành
Phật). Và trong kinh Tứ thập Nhị chương chép . “Cúng dường cho nhiều
đức Phật, công đức không bằng cúng dường cho người Vô niệm, vô trụ, vô tu,
vô chứng”. Ðại ý các đoạn trên đều nói đến thể tánh bình đẳng này.
**
13. Có tu và có chứng mà thật ra không tu và không chứng
-Này Thiện nam! Các Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, tuy tu
tập Tâm này (Viên Giác) mà được thành tựu (quả Phật) rồi, nhưng thực ra
thì không tu và cũng không thành, vì tánh Viên Giác vừa tịch diệt vừa phổ
chiếu tất cả, đối với Phật hay chúng sanh, không hai không khác.
LƯỢC GIẢI
Phật đã dạy “Nhứt thế chúng sanh giai hữu Phật Tánh” Nghĩa là: Tất cả
chúng sanh đều có Tánh Phật (Viên Giác). Song chúng sanh vì bị mây vô
minh che phủ mặt trăng Viên Giác (Phật) của mình, nên in tuồng có mê; bởi
in tuồng có mê nên cũng in tuồng có Tu và CHứng. Ðến khi mây vô minh
tan hết, thì mặt trăng Viên Giác hiện ra. Mặt trăng này đâu phải bấy
giờ mới có, và cũng không phải do dụng công tu hành mới thành, vì nó có từ
vô thỉ đến giờ. Bởi thế nên nói “In tuồng có Tu và có Chứng” Trong
kinh Tứ Thập Nhị Chương, cũng với ý này, Phật đã dạy: “Niệm đến chỗ không
niệm mới là chơn niệm, làm đến chỗ không làm mới là thật làm, nói đến chỗ
không nói mới là thật nói, tu đến chỗ không tu mới là tu, chứng đến chỗ
không chứng mới là thật chứng...”
Tuy biết như vậy, nhưng lúc đầu tiên hạ thủ công phu, phải có Tu có
Chứng, rồi mới có thể đạt đến chỗ rốt ráo là Vô tu Vô chứng. Cũng như
ông thầy giáo muốn cho cả lớp học được yên lặng thì phải dùng tiếng động là
gõ thước trên bảng. KHi học trò yên lặng thì tiếng gõ bảng hết, lúc
bấy giờ mới đổi lại cảnh yên tịnh được.
Cũng vì ngộ lý này, nên người xưa có làm bài thơ rằng:
Bách xích can đầu trực hạ thủy
Nhứt ba tài động vạn ba tùy
Dạ tịnh thủy hàn ngư bất thực,
Mãn thuyền không tải nguyệt minh qui.
Ý nghĩa bài thơ này, câu thứ nhất nói: “Nhợ 100 thước trên đầu
cần câu, thả thẳng xuống mặt nước”. Câu thứ hai nói: “Một lượn sóng
vừa gợn (động) thì liền có muôn gnàn lượn sóng nhấp nhô nổi theo”. Hai câu
này ý nói: Khi hạ thủ công phu, lúc đầu tiên thuộc về hữu tướng Tu, còn
phải dụng công có Tu có Chứng.
Câu thứ ba nói: “Ðến khuya các tiếng động hết, một bầu tịch mịch thanh
vắng mặt nước đông lạnh, bằng phẳng như tờ; cá cũng không ăn mồi”. Ý
nói hành giả lúc bấy giờ đã đi sâu vào chỗ “Tâm cảnh như như, ngả pháp đều
không” thuộc về Vô tướng tu. Vô cùng dung hạnh.
Câu thứ tư nói: “Chỉ có thuyền trống chở ánh sáng mặt trăng về...” Ðại
ý câu này nói: “Không tâm tải đạo” (tâm trống không, chứa đạo). Hành
giả lúc bấy giờ, tâm thể sáng suốt hiện khắp cả 10 phương (viên giác); in
tuồng có chứng có đắc... mà thật ra không chứng và không đắc.
*****
14. Sanh tử và niết bàn đều như mộng, vì chúng sanh vốn đã thành
Phật
Các thế giới của chư Phật, nhiều như số cát sông Hằng, đều ở trong tánh
“Viên Giác” này. Cũng như hoa đốm ở trong hư không, mặc tình lăng
xăng khởi lên và lăng xăng diệt mất. Nó không phải “tức” là tánh Viên
Giác, mà cũng không phải “ly” tánh Viên giác; không triền phược và giải
thoát. Bởi thế nên biết “Sanh tử và Niết bàn” cũng đều như giấc mộng
hôm qua, vì chúng sanh vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói: Tánh Viên Giác thanh tịnh vắng lặng như hư không
nên mặc tình cho các pháp lăng xăng khởi diệt như hoa đốm.
Niết bàn là đối với sanh tử mà có, trong tánh Viên Giác, Sanh tử đã
không, cho nên Niết bàn cũng như mộng.
Ðứng về phương diện lý tánh mà luận, thì tất cả chúng sanh đều sẵn có
tính Phật (Viên Giác) nên nói: “chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến
nay”. Song chúng sanh vì bị mây vô minh che mờ, nên mặt trăng Phật
(Viên Giác) của mình chẳng hiện. Ðến khi được gíó Bát Nhã thổi tan mây
vô minh rồi, thì trăng Viên Giác (Phật) của minh tự hiện.
Cũng vì ngộ lý này, nên cổ nhơn có làm bài thơ rằng:
Tòng hạ vấn đồng tử...
Ngôn: Sư thê dược khứ,
Chỉ tại thử sơn trung
Vân thâm bất kiến xứ.
Dịch nghĩa: Dưới cây tòng, hỏi Ðồng tử... Ðồng thử thưa rằng:
“Thầy đi hái thuốc, chỉ ở trong núi này thôi, nhưng vì mây đen nên chẳng
thấy được”
Trong bài thơ này, tác giả mượn người khách hỏi Ðồng tử để nói về lý
đạo.
Ðại ý: Chúng sanh đi tìm Ðạo. Thật ra Ðạo (Phật) không đâu xa, chỉ ở
trước mắt. Nhưng vì chúng sanh bị mây vô minh che mờ, nên chẳng thấy
được Ðạo (Phật).
Trong kinh có câu: “Tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt”: Tâm, Phật
và chúng sanh cả ba không sai khác. Hay là câu: “Phật pháp tại thế gian,
bất ly thế gian giác”: Phật pháp tại thế gian, giác ngộ không rời thế gian;
cũng là chỉ cho ý này. Bởi chúng sanh và Phật đồng một thể tánh Viên
giác, nên Phật với chúng sanh không hai, triền phược và giải thoát không
khác sanh tử với Niết bàn như mộng.
*******
15. Các Pháp bình đẳng
-Này Thiện nam! Phải biết sanh tử và Niết bàn đều như giấc mộng
hôm qua, cho nên không có sanh diệt và cũng không có khứ lai. Ở nơi
quả vị sở chứng, không có “được’ và “mất” hay “thủ” và “xả”. Ở nơi
người năng chứng cũng không có “tạo tác” và đình chỉ” hay “sanh (nhậm) và
“diệt”.
Trong tánh Viên Giác, tất cả các pháp đều bình đẳng, không có hoại
diệt. Rốt ráo không có người năng chứng và quả sở chứng.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh nói: “chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt
tướng”. Nghĩa là: Các pháp từ xưa đến nay, tướng nó thường vắng lặng. Bởi
đồng tánh Viên Giác, nên tất cả các pháp bình đẳng, không sanh diệt, không
khứ lai, không đắc thất, không thủ xả, không làm, không thôi, không sanh,
không diệt, rốt ráo không có người năng chứng và quả sở chứng, vì tất cả
đều là tánh Viên Giác vậy.
16.TÓM
LẠI
Này Thiện
Nam! Các vị Bồ tát kia phải y lời ta dạy trên mà suy nghĩ như vậy,
dùng phương tiện như vậy, y theo lớp lang và tuần tự tu hành như vậy, phải
cầu pháp như vậy và khai ngộ như vậy, mới khỏi mê muội.
LƯỢC GIẢI
Nguyên
trước Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật: “Phải suy nghĩ làm sao? Lập phương tiện thế
nào? Và thứ lớp tu hành ra sao? v.v...
Phật đã
giải thích rành rẽ rồi, nên đoạn này Phật dạy: “Phải suy nghĩ như vậy, dùng
phương tiện như vậy v.v... thì mới khỏi mê muội và ngộ nhập được tánh Viên
Giác”
*
17. Phật
nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy Ðức
Thế Tôn muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Phổ Nhãn!
Ông phải biết:
Thân, Tâm
của chúng sanh
Tất cả đều
như huyễn:
Thân này
thuộc bốn đại
Thân này
trả sáu trần;
Bốn đại tan
rã rồi,
Cái gì gọi là “TA”?
Tuần tự tu như vậy,
Tất cả đều thanh tịnh.
Viên Giác khắp Pháp giới,
Không làm, thôi, sanh, diệt
Không năng chứng, sở chứng:
Tất cả thế giới Phật
Như hoa đốm hư không.
Ba đời đều bình đẳng
Rốt ráo không qua lại
Bồ tất mới phát tâm,
Và chúng sanh đời sau,
Muốn cầu nhập Phật đạo
Phải như thế tu hành.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này là tóm lại các nghĩa trên.
Phật dạy quán sát Thân này và Tâm này đều như huyễn, không có thật
“Ngã". Cứ như thế mà tu hành thì lần lần sẽ được thanh tịnh. Lúc
bấy giờ tánh Viên Giác hiện ra khắp cả Pháp giới, không còn “làm” hay
“thôi”, “sanh” hay “diệt”, và cũng không có “năng chứng” và “sở
chứng”. Các thế giới nhiều như số cát Sông Hằng, đều ở trong tánh Viên
Giác, mặc tình nó sanh diệt như hoa đốm giữa hư không. Ba đời đều bình
đẳng, rốt ráo không qua lại. Các Bồ tát và chúng sanh đời sau, phải
như thế tu hành, mới vào được Ðạo Phật.
▲
Trở Lên
|
Bài thứ tư
IV. CHƯƠNG KIM CANG TẠNG
1. Ngài Kim
Cang Tạng Bồ Tát hỏi Phật
2. Phật khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát
3. Phật dạy: “Người mê nói ngộ, ngộ ấy thành mê”
4. Phật dùng thí dụ để giải thích nghĩa trên
5. Các Pháp hư huyễn không có thật sanh và diệt
6. Thành Phật rồi không trở lại làm chúng sanh
7. Tánh Viên Giác phi tất cả tưởng
8. Tánh Viên Giác không thể nghĩ bàn
9. Không thể dùng tâm chúng sanh phân biệt được cảnh Phật
10. Phật nói bài kệ tóm lại các ý nghĩa trên
IV.
CHƯƠNG KIM CANG TẠNG
1.
Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài
Kim Cang Tạng Bồ tát ở trong Ðại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng, và kính cẩn chắp tay, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi quỳ thẳng bạch
rằng:
Bạch đức
Ðại bi Thế Tôn, Ngài đã vì các vị Bồ tát nói rõ tánh “Viên Giác thanh tịnh”
của Như Lai, và chỉ dạy những phương tiện, tuần tự tu hành để nhập tánh
Viên Giác. Ngài đã vén mở mây vô minh mờ ám cho các chúng sanh. Thỉnh
chúng trong pháp hội này, nhờ lòng từ bi của Phật khai hóa, mà mắt Trí huệ được
sáng tỏ.
Bạch đức
Thế Tôn:
1. Nếu các
chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay, thì tại làm sao lại có tất cả vô
minh để trở lại làm chúng sanh nữa?
2. Nếu
chúng sanh sẵn có các vô minh, thì do nhơn duyên gì mà đức Như Lai lại nói:
“chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay”?
3. Nếu 10
phương chúng sanh đã thành Phật từ xưa, về sau lại sanh ra vô minh; vậy thì
các đức Như Lai hiện nay đã thành Phật rồi, chừng nào các Ngài sanh trở lại
phiền não nữa?
Cúi xin đức
Ðại bi Thế Tôn, vì các vị Bồ tát hiện tại và tất cả chúng sanh đời sau, nhổ
sạch gốc rễ nghi lầm, khiến cho chúng sanh được ngộ nhập đạo vô thượng.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này, Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát nghi: Có vô minh thì gọi là chúng sanh,
không vô minh mới kêu là Phật; thế mà Ðức Như Lai lại nói: “chúng sanh đã
thành Phật từ xưa đến nay”.
Nếu chúng
sanh đã thành Phật từ xưa đến nay, thì phải không còn vô minh. Nếu
không còn vô minh, thì không còn gọi là chúng sanh nữa. Tại làm sao
Phật còn gọi: “Chúng sanh”?
Lại nữa,
nếu chúng sanh sẵn có vô minh thì không thể nói “Nguyên lai thành Phật”.
Tại sao Phật lại nói: “chúng sanh nguyên lai đã thành Phật”.
Chúng sanh
tu hành phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật. Nếu khi được thành
Phật rồi, vô minh trở lại khởi lên làm chúng sanh nữa, thì tu biết chừng
nào cho rồi! Lại nữa, chư Phật hiện nay đã thành Phật, vậy chừng nào
các Ngài nổi vô minh trở lại làm chúng sanh nữa?
Ðoạn này
giống như trong kinh Lăng Nghiêm, khi Ngài Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử hỏi
Phật: “chơn tâm vốn đã thanh tịnh tại sao thoạt sanh ra sơn hà đại địa và
các chúng sanh?”
2. Phật
khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát
Khi đó đức
Thế Tôn khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện
nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau thưa
hỏi Như Lai những đạo lý diệu huyền.
Nay ta vì
các ông nói giáo pháp Ðại thừa, nghĩa lý rốt ráo và cao thượng, khiến cho
các vị Bồ tát tu học trong mười phương, và tất cả chúng sanh đời sau, đều
đoạn trừ hết các điều nghi ngờ, đặng tín tâm chắc chắn. Vậy các ông
nên chăm chú nghe lời ta chỉ dạy.
Khi đó Ngài
Kim Cang Tạng Bồ tát và Ðại chúng đều vui mừng, kính cẩn vâng nghe lời Phật
chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Kim Cang là
chất ngọc quý, cứng rắng nhứt trong loại ngọc. Nó đã cứng mà lại bén
(sắc), hay phá hoại các vật, mà các vật không phá hoại được nó.
Ðoạn này
Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát đứng lên thưa hỏi những chỗ khó khăn, là tiêu
biểu phải dùng Kim cang trí mới phá trừ nổi những mê lầm (vô minh) sâu sắc.
Ngài Kim
Cang Tạng Bồ tát cũng là một vị Thượng thủ trong hàng Bồ tát.
3. Phật
dạy: Người mê nói ngộ, Ngộ ấy thành mê
-Này Thiện
nam! TẤt cả các pháp, có thủy chung, sanh diệt, tiền hậu, hữu vô, nào
tụ tán, khởi dừng, xoay vần, qua lại, các món thủ xả, mỗi niệm nối
luôn. Những loại kể trên đều là luân hồi cả. Người chưa ra khỏi
luân hồi mà nghĩ bàn đến Viên Giác, thì tánh “viên giác” đó cũng trở thành
luân hồi (vị xuất luân hồi nhi biện Viên giác, bĩ Viên Giác tánh tức đồng
lưu chuyển) Nếu người ra khỏi luân hồi (hết mê vọng rồi) thì không còn thấy
có các việc hư vọng ấy nữa.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này Phật nói: Người còn ở trong vòng “mê” mà nói việc “ngộ” thì cái “ngộ’
này cũng thành “mê”. Dùng tâm chúng sanh nghĩ bàn đến cảnh giới Phật,
thì cảnh giới Phật cũng thành chúng sanh. Dùng tâm luân hồi mà nghĩ
bàn đến tánh Viên Giác, thì tánh “viên giác” cũng trở thành luân hồi.
Phật bảo
Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát: Nếu ông đứng trong vòng hư vọng, tương đối, có
thánh có phàm, có chúng sanh, có Phật v.v.. mà luận đến cảnh giới tuyệt
đối, bất tư nghị của chư Phật thì không thể được. Bởi thế nên người
muốn hiểu chỗ cao siêu của đạo Phật thì cần phải tu, chớ không thể nói
suông mà hiểu được.
4. Phật
dùng thí dụ để giải thích nghĩa trên
-Này Thiện
nam! Thí như: vì con mắt nháy mà thấy nước dợn sóng; vì mắt xem không
kịp mà thấy thành vòng lửa; nhơn mây bay mà thấy mặt trăng chạy; vì thuyền
đi mà thấy bờ trôi. Trong lúc các vật đây động, như mắt nháy, mây bay,
thuyền chạy v.v.. mà các vật yên tịnh kia như nước đứng, lửa đốm, trăng
dừng, còn thấy chuyển động thay, huống chi ông dùng tâm cấu nhiễm sanh tử
luân hồi mà quan sát tánh Viên giác thanh tịnh của Như Lai, thì tánh Viên
giác này làm sao chẳng cấu nhiễm. Thế nên ông mới sanh ra ba điều nghi
vấn trên.
LƯỢC GIẢI
Trong đoạn
này, Phật dùng những việc tầm thường trong đời làm thí dụ, như mắt nháy,
mây bay, thuyền đi v.v.. mà thấy nước dợn, trăng bay, bờ chạy v..v... để
chỉ rõ: vì dùng tâm cấu nhiễm mê vọng của chúng sanh mà quan sát nghĩ ngợi
đến cảnh giới của Phật, nên cảnh Phật trở thành tương đối mê vọng.
Vì ngài Kim
Cang Tạng Bồ tát dùng tâm phân biệt đối đãi có không, sanh diệt, thánh phàm
v.v... nên thấy có chúng sanh chưa thành Phật và có Phật đã thành. Bởi
thế nên NGài sanh ra ba điều nghi ngờ trên. Nếu Ngài nhập được tánh
Viên giác thanh tịnh rồi thì những tướng tốt đối đãi như thánh phàm nhiễm
tịnh, sanh tử và Niết bàn, chúng sanh và Phật đều không còn. Lúc bấy giờ
Ngài không còn nghi ngờ như trên nữa. Vì vậy nên đoạn sau Phật quở:
“.. những lời ông thưa hỏi đó, chẳng có đúng đắn...”
****
5. Phật
dạy: các Pháp hư huyễn, không có thật sanh và thật diệt
-Này Thiện
nam! Thí như người bịnh lòa mắt, trông nơi hư không vọng thấy có các hoa
đốm lăng xăng. Ðến khi bịnh lòa nhặm hết rồi, thì hoa đốm kia tự
diệt. Lúc bấy giờ, người ấy không nên hỏi: “Cái bịnh lòa nhặm này đã
diệt rồi, vậy chừng nào sanh trở lại nữa?” -Tại sao thế? –Vì cái lòa nhặm
nó vọng huyễn không có thật thể vậy.
Và, cũng
không nên hỏi: “Những chỗ hoa đốm diệt ở nơi hư không kia, vậy chừng nào
hoa đốm ấy sanh trở lại nữa?” -Tại sao thế? –Vì trong hư không vốn
không có hoa đốm, cho nên nó không có sanh ra hoa đốm hay diệt hoa đốm vậy.
Sanh tử và
niết bàn đối với tánh Viên giác, cũng đồng như hoa đốm sanh diệt trong hư
không. Tánh Viên Giác vẫn nhiệm mầu viên mãn, yên lặng chiếu soi, lìa cái
nhặm vô minh và cảnh giới hoa đốm.
Này Thiện
nam! Nên biết hư không kia còn không phải tạm có và tạm không, huống
chi tánh Viên Giác của Như Lai là bản tánh của hư không, nó bình đẳng tùy
thuận các duyên, mà lại tạm có và tạm không hay sao.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này nói: Vô minh và các vọng cảnh, đều hư huyễn không thật, cũng như hoa
đốm và mắt nhặm. Vì hoa đốm với nhặm, đều không phải thật vật,cho nên
nó không thật có sanh và diêt. Bởi thế, khi hết nhặm rồi, không nên
hỏi: “chừng nào nhặm trở lại nữa?” Hay hoa đốm đã diệt rồi, cũng không nên
hỏi: “Chừng nào nó sanh trở lại nữa?”
Hoa đốm và
bịnh nhặm, mặc tình nó vọng sanh vọng diệt, mà hư không lúc nào cũng vẫn
thanh tịnh và yên lặng. Cũng như Vô minh và vọng cảnh, mặc tình vọng
khởi và vọng diệt, mà tánh Viên giác vẫn thanh tịnh viên mãn và xa lìa các
vô minh cùng Vọng cảnh.
Tánh hư
không bình đẳng tùy thuận các đồ vật, mà hiện ra có tướng Vuông và
Tròn. Cũng như tánh Viên Giác bình đẳng, tùy thuận các duyên mà hiện
ra tất cả Pháp.
Hư không,
không phải nhơn lúc hoa đốm diệt mà nó tạm có, cũng không phải nhơn lúc hoa
đốm sanh mà nó tạm không; bởi tánh hư không thường có và bình đẳng, tùy hoa
đốm mặc tình sanh diệt, nhưng hư không vẫn không thay đổi.
Cũng thế,
tánh Viên giác thanh tịnh của Như Lai, thường còn bình đẳng và tùy
thuận các Pháp. Không phải nhơn lúc Vô minh diệt mà nó tạm có, hay Vô
minh sanh mà nó tạm không, nó tùy thuận tất cả, không có chướng ngại.
******
6. Phật
dùng thí dụ, để chỉ rõ khi thành Phật rồi, không trở lại làm chúng sanh
-Này Thiện
nam! Thí như chất kim khoáng, sau khi được nấu lọc, bỏ hết quặng rồi, thì
chỉ còn vàng y. Chất vàng này không phải do nấu lọc mới sanh, vì nó có
sẵn từ trước kia rồi, và khi đã thành vàng y, cũng không bao giờ trở lại
thành quặng nữa, dầu trải qua bao nhiêu năm, nó cũng không hư hoại.
Tánh Viên
Giác thanh tịnh của Như Lai cũng thế.
LƯỢC GIẢI
Phật dùng
vàng để thí dụ tánh Viên Giác, dùng khoáng dụ chúng sanh. Khi vàng còn
ở trong khoáng, cũng như Phật tánh (Viên giác) ở trong cái vỏ chúng
sanh. Vì y nơi Phật tánh sẵn có, nên Phật nói: “chúng sanh đã thành
Phật”.
Khi chất
kim khoáng được đem ra nấu luyện, lọc bỏ hết quặng chỉ còn vàng y, thì vàng
này không còn trở lại làm khoáng nữa.
Cũng như
chúng sanh, sau khi trải qua thời gian tu luyện, gạn lọc hết vô minh, phiền
não, tánh Viên giác hiện ra, được thành Phật rồi; lúc bấy giờ không còn
khởi vô minh phiền não trở lại làm chúng sanh nữa.
Dầu chưa
được nấu luyện, lọc bỏ quặng ra, lúc ấy chất vàng vẫn sẵn có. Ðến khi
nấu luyện, lọc bỏ hết quặng thành vàng y rồi, không phải lúc bấy giờ vàng
mới có. Tánh Viên giác cũng thế, khi làm chúng sanh, nó vẫn sẵn có,
nên nói: “chúng sanh đã thành Phật”.Trải qua thời gian tu luyện trừ hết Vô
minh phiền não, tánh Viên Giác hiện ra, không phải lúc bấy giờ nó mới sanh.
Khi tánh
Viên Giác đã hoàn toàn hiện rồi, thì vô minh phiền não không còn sanh trở
lại nữa, nên nói: “Thành Phật rồi, không còn trở lại làm chúng sanh”.
****
7. Tánh
Viên Giác phi tất cả tướng
-Này THiện
nam! Tánh Viên giác mầu nhiệm của Như Lai vốn không có Bồ đề, và Niết
bàn, không có thành Phật và chẳng thành Phật, cũng không có luân hồi và phi
luân hồi.
LƯỢC GIẢI
Ðứng về
phương diện tương đối mà nói: Vì có phiền não nên có Bồ đề, có sanh tử nên
có Niết bàn, có luân hồi nên mới có giải thoát, có chúng sanh mới có Phật.
Song đứng
về phương diện lý tánh tuyệt đối, tức là tâm Viên Giác mầu nhiệm của Như
Lai mà nói, thì phiền não đã không, nên Bồ đề chẳng có, sanh tử đã không,
nên Niết bàn chẳng có, cho đến chúng sanh đã không, nên Phật cũng chẳng có.
Ðến cảnh
giới này, thì nói năng không trúng, suy nghĩ cũng chẳng nhằm. Hành giả phải
tự chứng nhập.
******
8. Tánh
Viên Giác không thể nghĩ bàn
-Này Thiên
nam! Rất dỗi như cảnh giới Niết bàn thân tâm đoạn diệt của Thinh Văn
(1) Tiểu thừa kia, còn không thể dùng tâm phân biệt mà thân chứng được,
huống chi cảnh giới Viên giác thanh tịnh của Như Lai mà lại dùng tâm
suy nghĩ so đo của chúng sanh, làm sao nhập được.
Cũng như
người dùng lửa đom đốm, để đốt núi Tu di, làm sao đốt được. Người dùng tâm
luân hồi, sanh vọng chấp luân hồi, mà muốn vào biển Niết bàn tịch tịnh của
Như Lai thì không thể được.
Thế nên ta
dạy: Tất cả các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, trước phải đoạn hết căn
bản sanh tử luân hồi từ vô thỉ.
LƯỢC GIẢI
Cảnh giới
Niết bàn của Thinh Văn là cảnh giới Tiểu thừa (trầm không thú tịch khôi
thân diệt trí) mà còn không thể nghĩ ngợi được, huống chi cảnh giới của
Phật cao siêu tột bực, mà lại dùng cái vọng tâm sanh tử luân hồi của phàm
phu và trí của Tiểu thừa để suy nghĩ phân biệt cảnh giới Viên giác của Như
Lai, thì quyết không thể hiểu được (dĩ luân hồi tâm, sanh luân hồi kiến,
nhập ư Như Lai đại tịch diệt hải, chung bất năng chí) cũng như người
dùng lửa của con đom đốm để đốt núi Tu Di thì không thể được.
Bởi thế nên
Phật dạy: “trước phải đoạn hết căn bản sanh tử luân hồi từ vô thỉ”, tức là
diệt vọng tâm phân biệt. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy
rành rõ hai món căn bản là:
1. Phải
đoạn căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm
2. Phải y
trụ nơi căn bản
***
_____
(1) Thân
tâm đoạn diệt của Thinh Văn – Hàng Thinh Văn Tiểu thừa rất sợ việc hóa đạo
độ sanh, vì sợ gặp những nghịch cảnh rồi vô minh phiền não nổi lên, mà phải
bị thối chuyển. Bởi thế nên các Ngài cứ lo tu giải thoát một
mình. Từ đời này cho đến kiếp nọ, ưa ở chỗ thanh vắng tịch mịch, say
đắm cảnh Niết bàn của Tiểu thừa, giữ tâm yên tịnh luôn không dám khởi niệm,
say mê với cảnh thiền, thân không lay động cũng như tro nguội, nên nói:
“Thân tâm đoạn diệt”. Chỗ khác gọi rằng: “Trầm không thú tịch khôi thân
diệt trí”, nghĩa là: say sưa với cảnh không, thích thú nơi tịch mịch, thân
yên lặng như tro nguội, tâm trí diêt, không móng niệm.
Bởi thế nên
Phật quở hàng Tiểu thừa là loại giống khô, mộng héo (tiêu nha bại chủng),
nghĩa là thứ giống khô rụi, không thể nứt mộng sanh chồi nữa được.
Phật lại
dạy rằng: Không ai đem giống gieo trồng trên hư không được, mà phải gieo
trồng trên mặt đất. Giống Bồ đề cũng thế, không thể gieo trồng nơi chỗ
trống không được, mà phải gieo trồng nơi đất chúng sanh. Bởi thế nên
muốn thành quả Phật Bồ đề thì phải hóa độ chúng sanh.
9. Không
thể dùng tâm chúng sanh, phân biệt được cảnh Phật
-Này Thiện
nam! Nếu có suy nghĩ phân biệt là từ vọng tâm (thức) khởi, nên tất cả suy
nghĩ, đều là cái vọng tưởng phân biệt duyên theo bóng dáng của sáu trần. Nó
hư vọng như hoa đốm trong hư không, chẳng phải là chơn tâm. Nếu ông dùng
cái vọng tâm suy nghĩ này, mà suy nghĩ cảnh giới của chư Phật, thì cảnh
giới ấy cũng lẩn quẩn trong vòng vọng tưởng của chúng sanh mà
thôi. Cũng như người ngồi trong đợi cho hoa đốm giữa hư không kết
thành ra quả, thì không có thể được.
Này Thiện
nam! ông dùng tâm hư vọng thô phù, sanh ra các lối chấp xảo quyệt, (chấp
càng) cho nên ông không thể nhập được cảnh Viên Giác chơn thật của Như Lai.
Bởi thế, nên những lời ông hỏi trên, đều là hư vọng phân biệt, không phải
lời hỏi đúng đắn chơn thật.
LƯỢC GIẢI
Ðức Thế
Tôn, sau khi trải qua thời gian ba vô số kiếp tu hành, được thành Phật hiệu
là Thích Ca Mâu Ni rồi, Ngài dạy rằng: “Nói thành Phật thật ra không thành
cái chi khác, mà chỉ trở lại với tánh Phật sẵn có đó thôi”. Trong kinh nói:
“Thành mà vẫn không thành”, hay câu: “Ngộ liễu đồng vị ngộ, vô pháp diệc vô
tâm”. (Giác ngộ rồi cũng đồng như khi chưa giác ngộ, vì không có pháp và
cũng không có Tâm gì khác).
Tánh Phật
này, không riêng gì một mình Ngài có, mà tất cả chúng sanh đều có sẵn
có. Vì căn cứ theo Phật tánh sẵn có này, nên Ngài nói: “Tất cả chúng
sanh đều có tánh Phật” hay trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sanh
đều sẵn có đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai”.) nhứt thế chúng sanh cụ
hữu Như Lai trí huệ đức tướng). Bởi thế nên Ngài nói: “Chúng sanh đã
thành Phật từ lâu”.
Vậy, người
muốn hiểu đến lý này, phải nhập cảnh giới Phật, trình độ phải gần như Phật
mới hiểu được. Nếu chỉ dùng tâm cấu nhiễm thô phù phân biệt của chúng sanh,
mà so tính đến cảnh giới Phật, thì làm sao hiểu được. Cũng như người
muốn hiểu câu nói của cụ già tám muơi, ít nhất trình độ cũng gần như cụ già
mới hiểu. Nếu dùng trí non nớt của trẻ con năm, mười tuổi, mà suy nghĩ
câu nói của cụ già thì làm sao hiểu được. Bởi thế nên Phật nói: “những
lời ông hỏi trên đều là hư vọng phân biệt, không phải lời hỏi chơn
thật".
***
10. Phật
nói bài kệ để tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức
Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói kệ rằng:
Kim Cang
Tạng! Nên biết:
Như Lai
tánh vắng lặng,
Chưa từng
có chung thỉ,
Nếu dùng
tâm luân hồi,
Suy nghĩ
cảnh giới Phật,
Cảnh Phật
thành luân hồi.
Người ở bờ
luân hồi,
Không thể
vào biển Phật.
Phật tánh
tuy sẵn có,
Phải tu mới hiển nhiên.
Cũng như vàng sẵn có,
Phải lọc quặng mới thành.
Khi đã thành vàng y,
Không trở lại làm quặng.
Sanh tử và Niết bàn,
Phàm phu cùng chư Phật,
Thảy đều như hoa đốm.
Tâm suy nghĩ đã huyễn,
Làm sao nhập được chơn.
Nếu rõ được tâm nầy,
Mới cầu được Viên Giác.
LƯỢC GIẢI
Bài kệ này tóm lại các nghĩa trên. Ðại ý nói: Tánh Viên Giác của
Phật thanh tịnh vắng lặng, không có thánh phàm, chúng sanh và Phật v.v...
Nếu dùng tâm phân biệt của chúng sanh mà phân biệt cảnh giới Phật, thì cảnh
Phật cũng thành cảnh chúng sanh.
Chúng sanh tuy sẵn có Phật tánh, nhưng phải nhờ có tu mới
hiển. Cũng như chất vàng tuy sẵn có trong khoáng, nhưng phải nhờ lọc
hết quặng mới thành vàng y. Khi đã thành vàng y rồi thì không còn trở
lại làm quặng nữa. Cũng như khi đã thành Phật rồi không còn trở lại
làm chúng sanh.
Bởi đứng trong vòng vọng nhiễm tương đối, nên thấy có sanh tử và Niết
bàn, chúng sanh và Phật; chớ đứng về tánh Viên giác thanh tịnh của Như Lai,
thì các pháp trên đây đều như hoa đốm giữa hư không.
Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát vì muốn đại diện cho phàm phu, nên đã dùng
tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà suy nghĩ so đo, thấy có chúng sanh và
Phật, và giả thốt ra các lời hỏi hư vọng ấy. Những lời hỏi này, đối
với cảnh Viên giác chơn thật của Như Lai, thì chẳng nhằm chi cả. Bởi
thế nên Phật quở rằng: “Những lời ông hỏi đều không chơn chánh”.
Vậy nên, hành giả phải rời các vọng niệm phân biệt, mới hiểu được tánh
Viên Giác.
▲
Trở Lên
|
BÀI THỨ NĂM
V. CHƯƠNG DI LẶC BỒ TÁT
1. Ngài Di
Lặc Bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Di Lặc Bồ tát
3. Phật dạy: Ái và Dục là gốc rễ của sanh tử luân hồi
4. Phật trả lời câu hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?”
5. Bồ tát hiện thân, không phải do Ái dục, mà do lòng Ðại bi và Nguyện lực
6. Phật nói: có năm chủng tánh
7. Bồ tát thị hiện các hình tướng và cảnh thuận nghịch để nhập thế độ sanh
8. Chỉ nguyện thành Phật, không ở Nhị thừa và chớ gặp ngoại đạo tà sư.
9. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
V. CHƯƠNG
DI LẶC BỒ TÁT
1. Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi Phật
Khi đó Ngài
Di Lặc Bồ tát ở trong Ðại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng
và chấp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi qùy thẳng bạch rằng:
-Bạch đức
Ðại bi Thế tôn, Ngài đã vì các vị Bồ tát và Ðại chúng, mở kho báu bí mật
của Như Lai (Viên giác cảnh giới) và làm cho Ðại chúng hiện tại cùng chúng
sanh đời sau, được con mắt đạo sáng suốt không lo sợ, phân biệt được việc
tà chánh, hiểu sâu lý luân hồi, đối với cảnh Ðại Niết bàn (niết bàn Ðại
thừa) sanh lòng tin chắc chắn, không còn khởi các vọng chấp, trở lại cảnh
giới luân hồi nữa.
Bạch đức
Thế Tôn:
1. Các vị
Bồ tát và chúng sanh đời sau, làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi, để vào
biển Ðại Tịch diệt của Như Lai?
2. Có mấy
loại chúng sanh luân hồi?
3. Có
mấy hạng người tu theo đạo Bồ đề của Phật?
4. Khi Bồ
tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa chúng
sanh?
Cúi xin đức
Thế Tôn, rủ lòng đại bi cứu thế, chỉ dạy cho các vị Bồ tát hiện tại và
chúng sanh đời sau, khiến cho chúng sanh, gương lòng được sáng tỏ, mắt trí
huệ trong xanh, viên ngộ được “Tri kiến vô thượng” của Như Lai.
Ngài Di Lặc
Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, và kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Vì trong
chương Kim Cang Tạng, Phật dạy: “Trước phải đoạn gốc rễ của luân hồi
từ vô thỉ”, nên chương này Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “... Làm sao đoạn được
gốc rễ luân hồi? Và có mấy loại chúng sanh luân hồi?”
Ðại ý đoạn
này Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi:
1. Làm sao
đoạn được gốc rễ luân hồi để vào biển Ðại Niết Bàn của Như Lai?
2. Có mấy
loại chúng sanh luân hồi?
3. Có mấy
hạng người tu đạo Bồ đề của Phật?
4. Khi Bồ
tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì thể giáo hóa chúng
sanh?
Biển Ðại
Tịch diệt. -Tức là Niết bàn của Ðại thừa, rộng rãi bao la như biển cả, đã
thanh tịnh mà yên lặng nên gọi rằng “Tịch diệt”. Ðủ cả bốn đức là:
Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã và Chơn tịnh. Cũng là một cái tên khác
Viên giác hay chơn tâm.
Ðức Di Lặc
Bồ tát. -Tiền thân: Trong vô số kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Ðại thông
Trí Thắng Như Lai, lúc bấy giờ Ngài (đức Di Lặc) và đức Phật Thích Ca (tiền
thân) đồng phát tâm Bồ đề. Ðến khi đức Phật Nhựt Nguyệt Ðăng Minh ra đời,
thì Ngài mới phát tâm xuất gia nhưng tánh hay giải đãi, quen theo lối phong
lưu đài các, phóng túng, chẳng chịu thúc liểm tu hành, nên thành Phật trễ
sau đức Thích Ca, vào tiểu kiếp thứ mười.
Về sau nhờ
đức Phật Thích Ca dạy cho pháp tu Duy thức, Ngài quán thấy “Tam giới duy
tâm, vạn pháp duy thức”
Vì nhận
thấy giàu sang phú quý, danh vọng quyền tước... đều như bóng trong gương
như trăng dưới nước, do thức tâm biến hiện, nên Ngài tảo trừ hết vọng tưởng
say mê về hư vọng giả cảnh, trừ tánh “biến kế sở chấp” trên “y tha”, ngộ
được tánh “viên thành thật” nên được Phật Thích Ca thọ ký cho Ngài sau sẽ
thành Phật ở thế giới Ta bà này.
Thân hiện
tại của đức Di Lặc: Cách đây 2500 năm (544, trước T.L), khi Phật Thích Ca
giáng sanh tại Ấn Ðộ, thì Ngài hiện thân vào nhà của Bà La Môn tên là Ba Bà
Lợi ở về Nam Thiên Trúc, nhằm ngày mùng một tháng giêng âm lịch. Họ của
Ngài là A Dật Ða (không ai hơn), tên Di Lặc (Từ Thị). Tên họ này tiêu
biểu lòng từ bi, hỷ xả vô biên của Ngài. Từ bao nhiêu kiếp cho đến
ngày thành Phật, Ngài cũng vẫn lấy hiệu là Di Lặc.
Kinh Di Lặc
thượng sanh có nói: Ngày rằm tháng 2 (tháng 4 ta) sau khi nói kinh này 12
năm, thì Ngài nhập diệt tại chỗ bản sanh, rồi Ngài sanh lên nội viện cõi
trời Ðâu suất để chờ khi thế giới này giảm rồi tăng trở lại trong khoảng
kiếp tăng, loài người hưởng thọ tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới giáng
xuống cõi này, rồi sau đến ngồi gốc cây Long Hoa tu thành ngôi Chánh
giác. Ngài thành Phật rồi hóa độ chúng sanh vô lượng đến sáu vạn năm
mới nhập diệt.
Hóa thân
của đức Di Lặc: Kinh chép “bồ tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài”: Bồ tát lấy
việc cứu độ làm lợi ích cho chúng sanh làm bổn phận của mình. Ngài
hiện ra nhiều thân để lẫn lộn với từng lớp người đặng hóa độ chúng
sanh. Trong các hóa thân của Ngài, các Phật tử ở Tàu cùng ở Việt nam
hiểu nhiều và thờ nhiều hơn hết là thân Ngài Bố đại Hòa thượng. Ngài
hiện thân làm một vị Hóa thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa bên
Tàu. Ngài thường quảy cái đãy bằng vải đi khắp chợ búa xóm làng, ai
cho vật chi Ngài đều bỏ hết vào đãy mang đi. Ngài tụ họp các trẻ con
lại, rồi phân phát cho chúng bánh kẹo, giảng dạy Phật pháp, trò chuyện rất
vui thú, nên Ngài đi đến đâu thì các em tụ họp đông đảo đến đó.
Ngài thường
giảng kinh cho người nghèo, làm nhiều điều mầu nhiệm lạ thường. Lúc bấy giờ
thiên hạ không ai hiểu đặng Ngài là người như thế nào cả, chỉ cùng nhau kêu
là vị Bố Ðại Hòa Thượng (ông hòa thượng mang đãy bằng vải). Ðến đời
Lương niên hiệu Trịnh Minh năm thứ ba, tháng ba, Ngài nhóm chúng lại tại
chùa Nhạc Lâm, rồi Ngài ngồi ngay thẳng nói bài kệ:
Di Lặc chơn
Di Lặc
Hóa thân
thiên bách ức
Thời thời
thị thời nhơn
Thời nhơn
giai bất thức
(Di Lặc
thật là Di Lặc, biến hóa trăm ngàn ức thân, thường hiện trong đời, mà người
đời chẳng ai biết). Nói xong kệ rồi, Ngài an nhiên nhập diệt. Kẻ
tăng người tục đều cùng nhau đến lễ bái cúng dường và dựng tượng Ngài thờ
tại điện ở phía đông chùa Nhạc Lâm bên Tàu.
Vì căn cứ
theo ứng thân này, nên trong các chùa ở Tàu hay Việt Nam thường thờ tượng
Ngài Bố Ðại Hòa Thượng với vẻ mặt hiền từ hân hoan, miệng cười vui vẻ,
tượng trưng cho đức hoan hỷ. Người béo bụng to, hay cầm cái đãy, chung
quanh có sáu em bé đang leo trèo lên mình Ngài, là tượng trưng cho lục tặc
(sáu giặc) khi đã bị Ngài hàng phục. Ðây là hóa thân trong trăm ngàn
hóa thân của đức Di Lặc Bồ tát.
Tương lai
của đức Di Lặc: Hiện nay đức Di Lặc là một vị Bổ xứ Bồ tát đang ở nội viện
cung trời Ðâu suất, đợi đến khi thế giới này hết kiếp giảm thứ 9 rổi, đến
kiếp tăng thứ 10, trong lúc nhơn loại hưởng thọ được trên tám vạn tuổi, lúc
bấy giờ Ngài mới giáng sanh xuống cõi này, trong nhà của một vị Bà la môn
tên là Tu Phạm Ma, thân mẫu của Ngài tên Phạm Ma Bạt Ðề. Khi sanh ra Ngài
có nhiều tướng tốt, đức hạnh vẹn toàn, thông minh quán chúng. Lớn lên
Ngài xuất gia tu hành đến núi Kê Túc để nhận lãnh y bát của Ðức Phật Thích
Ca, do Ngài Ma Ha Ca Diếp trao lại, rồi sau Ngài đến ngồi dưới gốc cây Long
Hoa dùng Kim Cang trí trừ sạch vi tế vô minh, chứng đạo vô thượng Bồ đề.
Ngài thuyết
pháp tại giảng đường Hoa Lâm dưới cây Long Hoa. Hội thứ nhất độ được
chính mươi sáu ức người thành A La Hán, hội thứ hai độ chín mươi bốn ức
người thành A La Hán, hội thứ ba độ chính mươi hai ức người thành A La
Hán. Thế nên gọi là “Long Hoa tam bội”. Ngài thuyết pháp đến sáu
vạn năm, hóa độ vô số chúng sanh.
*********
2. Phật
khen Ngài Di Lặc Bồ Tát
Khi ấy đức
Thế Tôn khen Ngài Di Lặc Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện
nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau,
thưa hỏi Như Lai những nghĩa lý cao siêu huyền diệu, khiến cho các vị Bồ
tát đều được con mắt trí huệ thanh khiết và tất cả chúng sanh đời sau đoạn
tuyệt được sanh tử luân hồi, tâm ngộ thật tướng(1) và chứng được Vô sanh
nhẫn(2). Các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy.
Khi ấy Ngài
Di Lặc Bồ tát và Ðại chúng đều vui mừng kính cẩn, vâng nghe lời Phật khai
thị.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật khen Ngài Di Lặc Bồ tát: Những lời ông hỏi, để Phật chỉ giáo, nên
khiến các vị Bồ tát hiện tại, mắt trí huệ được sáng tỏ và chúng sanh đời
sau cũng nhờ câu hỏi này mà vĩnh viễn ra khỏi luân hồi.
_________
(1) Thật
tướng: Tướng chơn thật, không hư vọng, không bị thời gian thay đổi,
không gian chuyển đổi, suốt xưa thấu nay, nó vẫn thường như; cũng một biệt
danh của “Viên Giác”.
(2) Vô sanh
nhẫn: Chữ “Nhẫn” là an nhẫn, an trụ hay là chứng. Chữ “vô sanh” là không sanh. Nghĩa là: an trụ
chỗ Ngã và Pháp không còn sanh khởi, tức là an trụ “chơn tâm”
********
3. Phật dạy: Ái và Dục là gốc rễ của sanh tử luân hồi
-Này Thiện Nam! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, đều do món
“ân ái và tham dục” cho nên mới bị sanh tử luân hồi. Tất cả chúng sanh
trong thế giới tóm lại có bốn loài:
1. Loài sanh trứng
2. Loài sanh con
3. Loài sanh chỗ ẩm ướt
4. Loài hóa sanh
Các loại chúng sanh này, đều do “dâm dục” mà tạo thành tánh mạng của nó
(nhứt thế chúng sanh giai dĩ dâm dục nhi chánh tánh mạng).
Bởi thế, nên các ông phải biết: gốc rễ của sanh tử luân hồi là “Ái” và
“Dục” vậy. Vì có “dục” cho nên mới sanh ra ái luyến, do “luyến ái” nên
mới sanh tử tử sanh, nối luôn không dứt.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật chỉ ngay gốc rể của sanh tử luân hồi là “ân ái và tham
dục”. Chính như thân mạng của các chúng sanh đây, cũng đều do dâm dục
tạo thành.
Bởi thân mạng đã do ái dục sanh, nênthân mạng còn thì ái dục còn, ái
dục còn thì thân mạng còn.
Trong kinh Phật danh chép: “Có ái dục thì sanh, ái dục hết thì diệt;
cho biết gốc rễ của sanh tử là tham ái (hữu ái tắc sanh, ái tận tắc diệt,
cố tri sanh tử, tham ái vi bổn).
Trong kinh Niết bàn cũng nói: “nhơn ái sanh ưu, nhơn ưu sanh bố, nhược
ly tham ái, hà ưu hà bố”. Nghĩa là: Vì tham ái nên mới sanh lo, nhơn
lo mới sanh sợ, nếu nguời lìa được ái dục rồi, thì có lo gì và sợ gì?
Bốn lòai:
1. Noãn sanh: loài sanh trứng, như loài chim, cá v.v..
2. Thai sanh: loài sanh con, như loài người và thú v..v...
3. Thấp sanh: loài sanh chỗ ẩm ướt, như lăng quăng, vi trùng v.v...
4. Hóa sanh: như loài nhộng hóa làm bướm, hoặc như loài địa ngục, ngạ
quỷ và chư Thiên v.v...
****
-Này Thiện nam! Nhơn ái luyến nên sanh ra “dục”, do dục nên mới
có thân mạng. Bởi thế, nên truy tầm đến cội gốc của nó, thì chúng sanh
ái luyến thân mạng tức là ái luyến “Dục”. Ái luyến dục là “nhơn”, mà
ái luyến thân mạng là “quả”.
LUỢC GIẢI
Ngài Tôn Mật nói: “Do cảnh dục trần bên ngoài nó trêu ghẹo, làm cho tâm
sanh ái luyến; do tấm ái luyến, cho nên mới sanh ra tham dục. Vì tham
dục nên tạo nghiệp, do tạo nghiệp nên mới thọ quả. Khi thọ quả khổ
rồi trở lại tạo nghiệp nữa. Vì thế nên sanh tử không cùng”.
********
4. Phật trả lời câu hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?”
-Này Thiện nam! Cảnh hồng trần có lắm điều xuôi ngược, nếu người
khi gặp nghịch cảnh, sanh tâm giận ghét, tạo ra các nghiệp dữ, thì đọa vào
Ðịa ngục, Ngạc quỷ và súc sanh.
Nếu người biết nhàm cảnh dục, ưa tạo nghiệp lành, chán chê ác nghiệp,
thì lại sanh về cõi người và cõi trời Dục giới.
Còn những người nhàm chê cảnh trần lao, ô nhiễm ở cõi Dục, tham ái cảnh
Tứ thiền và Bát định của hai cõi trên, như thế cũng còn tư dưỡng gốc tham
ái, cho nên sanh về hai cõi hữu vi là “trời Sắc giới” và “Vô sắc giới”.
Các loại chúng sanh trên đây, đều còn trong vòng sanh tử luân hồi, vì
còn các tham ái, nên chẳng thành Thánh đạo. Thến nên, chúng sanh nào
muốn thoát ly sanh tử luân hồi, thì trước phải đoạn trừ các tham dục và tâm
ái luyến.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trêen là Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân
hồi?”. Ðến đoạn này Phật trả lời có ba loại chúng snah luân hồi:
1. Ác nghiệp: Như Ðịa ngục, Ngạ
quỷ và súc sanh (nghiệp ác bực thượng thì đọa vào địa ngục, nghiệp ác bực
trung thì đọa làm Ngạ quỷ, nghiệp ác bực hạ thì đọa làm súc sanh).
2. Thiện nghiệp: - Ðây là nói về
hữu lậu thiện. Như: Thiên, Nhơn và Thần A Tu La (Nghiệp lành bực thượng thì
sanh lên 6 cõi Trời về Dục giới, nghiệp lành bực trung thì sanh về cõi
Người, nghiệp lành bực hạ thì sanh làm thần A Tu La)
3. Bất động nghiệp (Thiền định) – Như cõi Trời Tứ Thiên và Tứ không. Do tu thiền định mà được sanh
về bốn cõi Thiền ở Sắc giới (1. Ly, sanh hỷ lạc địa; 2. Ðịnh, sanh hỷ lạc
địa; 3. Ly hỷ, diệu lạc địa; 4. Xả niệm, thanh tịnh địa). Và bốn cõi
Không, ở cõi Trời Vô sắc (1. Không vô xứ thiện; 2. Thức vô biên xứ thiên;
3. Vô sở hữu xứ thiên; 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên)
Ba loại chúng sanh này (ác nghiệp, thiện nghiệp và bất động nghiệp) tuy
có cao thấp, sang hèn khác nhau, nhưng cũng đều còn ái và dục, chẳng qua
thô hay tế đó thôi. Ái dục còn tức là phiền não hữu lậu còn; vì phiền
não hữu lậu còn nên phải còn sanh tử luân hồi.
Tóm lại, vì chúng sanh trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới)
còn ái nhiễm nên đều còn luân hồi cả.
Kết thúc đoạn này, Phật dạy một câu:
“....Thế nên chúng sanh, muốn ra khỏi sanh tử luân hồi, thì truớc hết
phải đoạn trừ ân ái và tham dục” (Thị cố chúng sanh, dục thoát sanh tử,
miễn chư luân hồi, tiên đoạn tham dục, cập trừ ái khát).
Phật dạy Pháp tu ra khỏi sanh tử luân hồi, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi:
“Phải đoạn ân ái và tham dục”
Rất giản dị và rõ ràng vô cùng. Thật là “khuôn vàng thước ngọc”,
đáng làm quy cũ cho muôn đời! Hành giả chỉ thực hành đúng như lời Phật dạy
đây, đó là Tu, Tu là đó rồi.
Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy rằng:
“...Dâm Tâm bất trừ,
Trần bất khả xuất...”
Nghĩa là: Tâm nghĩ ngợi đến việc tham dục, nếu không dứt trừ, thì cảnh
hồng trần này không biết bao giờ ra khỏi.
5. Bồ tát hiện thân, không phải do ái dục mà do lòng đại bi và
nguyện lực
-Này Thiện nam! Các vị Bồ tát hóa hiện thân hình ở trong thế gian,
không phải vì ái dục nhiễm ô như chúng sanh, mà gốc do lòng Từ bi và đại
nguyện cứu thế, nên đã hiện ra thân tham dục để vào sanh tử hóa độ chúng
sanh, khiến cho chúng sanh xả bỏ các ái dục.
LƯỢC GIẢI
Vì sợ có người hiểu lầm: Bồ tát củng có phụ mẫu, thê tử, v.v... tất
nhiên phải có ái dục, nhiễm ô và cũng thật sanh tử như chúng sanh, nên đoạn
này Phật giải thích: Bồ tát do lòng từ bi và đại nguyện cứu thế, nên hiện
ra thân tham dục, để vào sanh tử, đặng hóa độ chúng sanh, chớ không phải
thật có tham dục và sanh tử.
6. Phật dạy: Có năm chủng tánh
-Này Thiện Nam! Nếu tất cả chúng sanh đời sau, bỏ được các tham
dục, trừ tâm thương ghét, dứt hẳn sanh tử luân hồi, nơi tâm được thanh
tịnh, cầu nhập cảnh giới Viên giác của Như Lai thì sẽ được ngộ nhập.
-Này Thiện nam! Tất cả chúng sanh gốc từ vô minh tham dục, nên
sanh ra năm món tánh sai khác. Năm món tánh này là căn cứ theo việc
đoạn trừ hai chưóng có cạn và sâu mà phân định.
Thế nào là hai chướng?
1. Lý chướng: làm chướng ngại
chánh tri kiến
2. Sự chướng: làm tiếp nối các
sanh tử. Nếu đối với hai món chướng này má hoàn toàn chưa đoạn thì gọi là
chúng sanh
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “Có mấy hạng người tu theo đạo Bồ đề
của Phật?”. Ðến đoạn này Phật trả lời có năm hạng. Song năm hạng này
là căn cứ theo việc đoạn trừ hai chướng có cạn và sâu của hành giả mà phân
định.
Lý chướng: Chướng về Lý, cũng tên là “Sở tri chướng”, do chấp Pháp mà
sanh. Vì chấp pháp nên làm cho chướng ngại “Chơn như lý tánh” không hiện
bày; vì thế, nên nói “Lý chương là chướng ngại chánh tri kiến của Phật”
Sự chướng: Chướng về sự, cũng gọi là “phiền não chướng, do chấp Ngã
sanh. Do các phiền não nên tạo ra các nghiệp vì tạo nghiệp nênmới thọ
luân hồi. Vì thế Phật nói: “Sự chướng làm tiếp nối sinh tử luân hồi”.
Bởi chấp ngã nên khởi ra các phiền não làm chướng ngại Bồ đề. Bởi
chấp ngã nên sanh ra Sở tri chướng, làm phát tâm tu hành, đối với hai món
chướng này chưa đoạn được món nào, cho nên chỉ kêu là “chúng sanh” mà không
liệt vào trong năm chủng tánh.
*********
-Này Thiện nam! Thế nào là năm chủng tánh?
1. Thinh văn chủng tánh
2. Duyên giác chủng tánh
3. Bồ tát chủng tánh
4. Bất định chủng tánh
5. Ngoại đạo chủng tánh
1. Thinh Văn và
2. Duyên giác chủng tánh
Nếu chúng sanh nào đoạn tuyệt tham dục, trừ được sự chướng (ngã chấp)
nhưng lý chướng (pháp chấp) chưa đoạn, thì chỉ chứng đặng quả Thinh văn và
Duyên giác chớ chưa được an trụ cảnh giới Bồ tát.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về chủng tánh Thinh văn và Duyên giác, chung gọi là “nhị
thừa chủng tánh”.
Ðành rằng hai quả vị này đồng bỏ hẳn lòng tham dục, đồng phá được ngã
chấp, trừ sự chướng, đồng đoạn được sanh tử và cũng đồng chưa trừ được lý
chướng (pháp chấp) nhưng pháp tu của hai bên khác nhau.
-Một bên tu pháp Tứ đế đoạn được sự chướng (ngã chấp) thì gọi là “Thinh
Văn chủng tánh”
-Một bên tu pháp “Thập nhị nhơn duyên đoạn được sự chướng (ngã
chấp) thì gọi là “Duyên giác chủng tánh”
Ngài Tôn Mật giải rằng: “Biết được khổ sanh tử, dứt trừ tâm leo chuyền,
thì gọi là trừ “sự chướng”, thật ra chưa có thể trừ được ba món Tế” (ba món
Tế, xem trong quyển Ðại thừa Khởi tin luận).
3. Bồ tát Chủng tánh
-Này Thiện nam! Nếu các chúng sanh đời sau, muốn vào biển Ðại Viên
giác của Như Lai, thì trước phải phát nguyện, siêng năng đoạn trừ hai món
chướng. Ðến khi hai món chướng đã nép phục, thì ngộ vào cảnh giới Bồ
tát.
Nếu như khi món chướng (ngã chấp, pháp chấp) đã hoàn toàn diệt, thì vào
được cảnh giới Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai, viên mãn quả Bồ đề và đạt
Niết bàn.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói về bồ tát chủng tánh. Có chia làm hai thời kỳ:
1.
Thời kỳ hai chướng mới nép phục.
2.
Thời kỳ đoạn tuyệt hai chướng
Hành giả từ
khi còn địa vị phàm phu, đang bị hai chướng (phiền não chướng và Sở tri
chướng) hoành hành, rồi trải qua giai đoạn giằng co, cho đến lúc hai chướng
bị nép phục, như thế mới vừa lên địa vị Bồ tát. Khi lên địa vị Bồ tát,
tiếp tục đoạn chướng, đến lúc đoạn tuyệt được phiền não chướng (ngã chấp)
thì đặng Bồ đề (trí đức), đoạn tuyệt được sở tri chướng (pháp chấp) thì
đặng đại Niết bàn (đoạn đức). Hai chướng bị đoạn vĩnh viễn rồi, thì
đặng vào quả “Phật”.
Tại sao lập
Bồ tát tánh mà không lập Như Lai tánh? Vì Bồ tát tu hành đến lúc hoàn toàn
rốt ráo, thì chứng quả vị Phật, nên không lập thêm Như Lai tánh.
**********
4. Bất định
chủng tánh
-Này Thiện
nam! Có loại chúng sanh có thể chứng được Viên giác. Song, nếu chúng
gặp Thiện tri thức là Thinh văn hóa độ, thì chúng thành Tiểu thừa; còn gặp
thiện tri thức là Bồ tát hóa độ thì chúng thành Ðại thừa. Nếu gặp Như
Lai dạy tu đạo vô thượng Bồ đề, thì chúng thành Phật thừa.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
nói về “Bất định chủng tánh”. Nghĩa là chúng sanh này căn tánh không
nhất định Ðại thừa hay Tiểu thừa. Nếu gặp Thiện tri thức thuộc về Ðại
thừa giáo hóa, thì chúng thành Ðại thừa; còn gặp Thiện tri thức thuộc về
Tiểu thừa giáo hóa thì chúng thành Tiểu thừa.
*******
5. Ngoại
đạo chủng tánh
-Này Thiện
nam! Có những chúng sanh đi tầm Thiện tri thức chỉ dạy đường lối
tu hành, nhưn glại gặp ngoại đạo tà sư dạy bảo, nên chúng nó sanh ra
tà kiến, hiểu ngộ không chơn chánh, thế gọi là “Ngoại đạo chủng
tánh”. Ðây không phải lỗi tại chúng sanh đó, mà lỗi tại tà sư.
Tóm lại,
chúng sanh tu Bồ đề, có năm món chủng tánh sai khác, như ta vừa kể xong.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
nói về “ngoại đạo chủng tánh”. Tuy chúng sanh này vẫn có tâm
tu hành, nhưng không gặp “thiện tri thức” giáo hóa, lại gặp tà sư chỉ
dạy, nên thành ngoại đạo.
Vì sự hiểu
biết của chúng tà ngụy, không phải là chánh đạo, nên gọi là “ngoại
đạo”. Ngoại đạo chủng tánh, ở kinh khác gọi là “Xiễn đệ chủng tánh”,
nghĩa là “đoạn giống Phật”. Vì trong bốn chủng tánh trên, tuy có Ðại
thừa và Tiểu thừa khác nhau, nhưng cũng đều “chánh ngộ”, duy có Ngoại đạo
chủng tánh, sanh các tà kiến, đoạn diệt chánh kiến, trái ngược với chánh
nhơn thành Phật cho nên gọi là “chúng Xiễn đề” (đoạn giống Phật).
7. Bồ
tát nhập thế độ sanh thị hiện các hình tướng và các cảnh thuận nghịch
-Này thiện
nam! Các vị bồ tát đều y bổn nguyện độ sanh của mình từ vô thỉ và do
lòng Ðại bi thanh tịnh(1) thúc đẩy nên nhập thế độ sanh. Bồ tát dùng phương
tiện thị hiện ra nhiều hình tướng, khi thì hiện cảnh thuận, khi thì hiện
cảnh nghịch, có lúc lại lân la ở chung với chúng sanh và đồng làm các nghề
nghiệp như chúng sanh (Ðồng sự nhiếp) để tiện bề hóa độ, khiến cho chúng
sanh được thành Phật.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên
Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi Phật: “Khi bồ tát nhập thế độ sanh, phải dùng những
phương tiện gì để giáo hóa chúng sanh?”
__________
(1) Ðại bi
thanh tịnh: Bồ tát do lòng từ bi rộng lớn thương xót chúng sanh mà hiện
thân hóa đạo, không phải vì danh và lợi v.v.. cho nên nói là “Thanh
tịnh”
Ðại ý đoạn
này Phật trả lời: Bồ tát do bản nguyên độ sanh từ vô thỉ (bồ tát dĩ lợi
sanh vì bổn hoài), và lòng Ðại bi thanh tịnh thúc giục, nên mới nhập thế độ
sanh; không đồng như chúng sanh do ái dục làm nhiễm ô và bị nghiệp lực lôi
cuốn mà nhập thế.
Bồ tát dùng
phương tiên, thị hiện ra nhiều hình tướng để độ sanh. Như Ngài Quan Âm hiện
32 ứng thân, Ðức Di Lặc Bồ tát hiện thân Bố đại Hòa thượng, hoặc có vị hiện
thân Kim Cang, hiện thân Tiêu Diện, Thập Diện, Thập Ðiện Minh vương, Ngưu
đầu, Mã viện v.v.. có lúc hiện “Từ”, có lúc hiện “Oai” nên có câu:
“Kim Cang
lộ mục sở dĩ hàng phục tứ ma
Bồ tát đê
mi do thị ai từ ư lục đạo”
Nghĩa là:
Thần Kim Cang trợn mắt là để hàng phục bốn ma. Bồ tát xủ mày là vì
thương chúng sanh trong 6 đạo. Bồ tát khi thị hiện cảnh thuận:
giảng dạy Pháp lành khuyên người tu học v.v.. có lúc lại hiện cảnh nghịch
như: hiện chảo dầu sôi, để độ ông Nan Ðà tôn giả, hoặc dùng gọng xiềng đánh
đập v.v.. để cho người biết thức tỉnh hồi tâm. Cổ nhơn nói: “Người
không gặp tai nạn, thì chẳng biết hồi tâm hướng thiện”. (Nhơn vô vạn
họa, bất hồi đầu). Hay như Ngài Thiện Tài Ðồng Tử đi tham học với Bà
Tu Mật Nữ v.v..
Bồ tá có
khi thị hiện lân la ở chung cùng với chúng sanh và đồng làm các nghề
nghiệp như chúng sanh (như Ngài Lục Tổ khi ở chung với bọn thợ săn v.v...
để lần hồi dẫn dắt chúng sanh trở về Chánh Ðạo).
Tóm lại,
các Bồ tát nhập thế độ sanh, đều do tâm đại bi làm chủ động, lấy Ðại nguyện
làm căn bản, dùng phương tiện có nhiều môn, tuy không nhứt định, nhưng đại
khái không ngoài Thuận và Nghịch. Hoặc dùng lời giảng dạy (khẩu giáo
hóa) hoặc hiện thân hóa độ (thân giáo hóa), hoặc dùng đồng sự nhiếp, chung
quy một mục đích là khiến cho chúng sanh được giải thoát và thành Phật.
*****
8. Chỉ
nguyện thành Phật, không ở nhị thừa và chớ gặp ngoại đạo
-Này Thiện
nam! Nếu chúng sanh đời sau, phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát,
khởi tâm tăng tấn cầu nhập Viên Giác, thì phải phát nguyện như vầy:
Con nguyện
ngày nay, được gặp Thiện tri thức dạy con tu hành để nhập Viên giác của
Phật, chớ gặp tà sư ngoại đạo và Nhị thừa.
Con y theo
bản nguyện tu hành, lần hồi dứt trừ các chướng. Khi các chướng hết,
nguyện viên mãn, thì con sẽ được vào thành lớn Viên Giác, trang nghiêm tốt
đẹp và lên cung điện thanh tịnh giải thoát của Như Lai.
LƯỢC GIẢI
Đại ý
đoạn này Phật dạy các chúng sanh đời sau, muốn cầu Viên Giác, thì phải phát
lời thệ nguyện: “Con nguyện chớ gặp tà sư ngoại đạo và tiểu thừa chỉ lo tu
ích kỷ tiêu cực không chịu hoằng pháp lợi sanh. Con nguyện gặp Thiện
tri thức Ðại thừa, tu lợi tha tích cực, dạy bảo con tu hành được thành quả
Phật”.
Ngài Như
Sơn nói: “Lý, tuy đốn ngộ, nhưng về phần sự tướng thì phải lần lần diệt
trừ” (lý tuy đốn ngộ, sự nải tiệm trừ)
Khi các
chướng hết rồi, thì đi, đứng nằm ngồi trong tất cả thời và tất cả chỗ, đều
được giải thoát. Ðó là cung điện giải thoát thanh tịnh và thành Viên
giác trang nghiêm của Như Lai.
**********
9. Phật
nói bài kệ, tóm lại các nghĩa trên
Khi đó Ðức
Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Di Lặc! Ông
nên biết:
Tất cả các
chúng sanh
Ðều do tham
dục vậy,
Nên đoạ vào
sanh tử
Chẳng đặng
đại giải thoát.
Nếu người
đoạn thương ghét,
Cùng với
tham, sân, si.
Không cần tu gì khác,
Cũng đều được thành Phật.
Cầu nguyện gặp Minh sư,
Khai ngộ được chơn chánh,
Y theo nguyện Bồ tát,
Trừ tuyệt hai món chướng,
Ðược vào đại Niết bàn
Các Bồ tát mười phương,
Ðều bởi lòng Ðại bi,
Phát nguyện vào sanh tử,
Tùy loại độ chúng sanh.
Người tu hành hiện tại
Và chúng sanh đời sau,
Phải đoạn trừ ái hoặc,
Mới đặng vào Viên Giác
LƯỢC GIẢI
Bài kệ này Phật gọi Ngài Di Lặc bồ tát mà dạy, đại ý như vầy: Tất cả
chúng sanh vì tham dục, nên bị sanh tử luân hồi,không được giải
thoát. Nếu người đoạn tuyệt được tham, sân, si v.v.. thì được thành
quả Phật. Thế nên người tu hành phải cầu Minh sư khai ngộ, rồi y theo
hạnh nguyện của Bồ tát mà đoạn trừ hai chướng và cầu chứng quả Niết bàn của
Phật.
Các vị Bồ tát ở mười phương đều do lòng Ðại bi thanh tịnh làm chủ động
và chí nguyện lợi tha thúc đẩy, nên không nỡ yên ở chỗ thanh tịnh tu giải
thoát một mình, thích thú nơi cảnh tịch tịnh lo phần ích kỷ như hàng Tiểu
thừa; mà Bồ tát thệ nguyện nhập thế độ sanh, lẫn lộn với trần lao để tùy
duyên hóa độ. Không sợ ô nhiễm, chẳng kể gian lao, không từ khó nhọc.
Như Ngài Ðịa Tạng Bồ tát nguyện rằng:
“Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề
Ðịa ngục vị không thệ bất thành Phật”
Tổ A Nan
cũng thệ rằng:
“... Ngũ
trược ác thế thệ tiên nhập
Như nhứt
chúng sanh vị thành Phật
Chung bất ư
thử thủ Nê hoàn...”
▲
Trở Lên
|
Bài thứ sáu
VI. CHƯƠNG THANH TỊNH HUỆ
1. Ngài
Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát
3. Phật dạy: Trong Viên Giác không có Bồ tát và chúng sanh
4. Phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác
5. Bồ tát ở vị Tam hiền tùy thuận tánh Viên giác
6. Bồ tát lên Thánh vị tùy thuận tánh Viên giác
7. Như Lai tùy thuận tánh Viên giác
8. Tóm tắt
9. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
CHƯƠNG
THANH TỊNH HUỆ
1. Ngài
Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài
Thanh Tịnh Huệ Bồ tát ở trong Ðại Chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng, rồi chắp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân Phật và quỳ thẳng bạch
rằng:
Bạch Ðức
Ðại Bi Thế Tôn, Ngài đã vì chúng con, khôn khéo rộng nói những việc không
thể nghĩ bàn. Những việc mà chúng con từ hồi nào đến giờ, chưa từng
thấy và chưa từng nghe, hôm nay nhờ Phật khai thị khiến cho chúng
con được liểu ngộ, thân tâm khoan khoái vui mừng, đặng lợi ích rất lớn.
Bạch đức
Thế Tôn, xin Ngài vì các vị bồ tát và tất cả chúng sanh trong pháp hội này,
chỉ dạy thứ lớp tu chứng của Như Lai như thế nào để cho chúng sanh hiện tại
và đời sau, nhơn nghe lời Phật dạy đây, mà được khai ngộ, lần lượt tùy
thuận vào tánh Viên Giác của đức Pháp Vương (Phật).
Ngài Thanh
Tịnh Huệ thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này, Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật: Trên đường lối tu hành, từ địa vị
phàm phu đến quả vị Phật, phải trải qua bao nhiêu địa vị? Thứ lớp tu
chứng sai khác thế nào? Cầu Phật chỉ dạy, khiến cho chúng sanh được liễu
ngộ, lần lượt nhập vào tánh Viên Giác.
Thanh Tịnh
Huệ là trí huệ thanh tịnh, tức là Bát nhã huệ. Từ chương này đến 6
chương sau là chú trọng về việc hạ thủ công phu. Trong khi tu hành bất luận
giờ phút nào, cũng phải dùng Bát nhã trí để lãnh đạo; cho nên chương này
Ngài Thanh Tịnh Huệ đứng lên thưa hỏi, là tiêu biểu cho Bát nhã huệ vậy.
*********
2. Phật
khen Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát
Khi đó đức Thế
Tôn khen Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện
nam, quý lắm! ông vì các bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa hỏi
Như Lai về thứ lớp tu chứng sai khác như thế nào. Vậy các ông nên chăm
chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy
Khi đó Ngài
Thanh Tịnh Huệ Bồ tát và Ðại chúng đều hoan hỷ và kính cẩn vâng nghe lời
Phật chỉ giáo.
***********
3. Phật
dạy: Trong Viên giác không có Bồ tát và chúng sanh
-Này Thiện
nam! Trong tánh Viên giác thanh tịnh, không tất cả pháp, mà có đủ tất
cả pháp. Nó tùy thuận các duyên biến hiện ra đủ tất cả, mà không thủ
và không chứng. Thí như con mắt, thấy được tất cả vật, mà không tự
thấy mình. Nó vẫn bình đẳng mà không tự thấy mình bình đẳng.
Này Thiện
nam! Trong thật tướng (viên giác) không có Bồ tát và chúng sanh. Tại
sao thế?
- Bởi Bồ
tát và chúng sanh đều là huyễn hóa vậy. Khi các tướng huyễn hóa diệt
rồi, thì không có người năng chứng và quả sở chứng.
Chúng sanh
vì còn mê muội điên đảo nên chưa diệt trừ được các tướng huyễn hóa. Vì
chúng sanh vọng khởi công dụng, để đối trị các tướng huyễn hóa, bởi có
những tướng huyễn hóa đã diệt và chưa diệt, nên chúng mới thấy có thứ lớp
tu chứng sai khác. Nếu người đặng tùy thuận tánh Viên giác tịch diệt của
Như lai rồi, thì không còn thấy có cảnh tịch diệt và người tịch diệt nữa.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này Phật nói: Trong tánh Viên giác vốn không có tất cả pháp, mà tùy
duyên hiện ra đủ tất cả các pháp sai khác. Ðoạn này giống với đoạn
trong kinh Lăng Nghiêm. Phật thí dụ cây đờn, trong cây đờn không có các bài
bản hay và dỡ; song tùy duyên nó hiện ra đủ các tiếng hay và dở.
Trong tánh
Viên Giác không có năng thủ, sở thủ và năng chứng sở chứng, không Bồ
tát và chúng sanh. Vì chúng sanh chưa diệt trừ được các tướng huyễn
hóa, nên vọng khởi công dụng để dẹp trừ các tướng vọng huyễn này. Vi
thế mà thấy có chứng và có đắc, bực lớp sai khác. Nếu tùy thuận được
tánh Viên giác tịch diệt của Như Lai rồi, thì không còn thấy có một pháp
nào cả.
Trong đoạn
này có cái ví dụ: “Như con mắt không tự thấy con mắt” – Cái ví dụ này chỉ
cho tánh bình đẳng và vô công dụng của Viên Giác. Tánh Viên Giác tùy
duyên hiện ra các pháp mà không thủ, không chứng. Cũng như con mắt
bình đẳng chiếu soi tất cả vật, mà không thấy mình có chiếu soi và bình
đẳng.
*******
4. Phàm
phu tùy thuận tánh Viên giác (địa vị thập tín)
-Này Thiện
nam! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, do lầm tưởng có “thật ta và
vật của ta” rôì sanh lòng thương yêu cái ta và vật của ta, cho nên gặp cảnh
nghịch với ta thì giận ghét, còn thuận với ta thì tham ái, say mê theo cảnh
ngũ dục. Chúng chưa từng biết thân tâm này là hư vọng, mỗi niệm sanh
diệt luôn luôn, không có thật ta.
Nếu gặp
thiện hữu tri thức dạy bảo, chúng được khai ngộ tánh Viên Giác thanh tịnh,
hiểu rõ thân tâm này là hư vọng mỗi niệm sanh diệt không thật có cái ta;
lúc bấy giờ chúng mới tự xác nhận rằng: thân tâm này là “trần lao vọng lự”.
Những người
nào đoạn trừ được vĩnh viễn các trần lao vọng lự này, thì ngộ pháp giới
thanh tịnh, nhưng đối với tánh Viên Giác chưa được tự tại, vì còn bị cái
“biết thanh tịnh” nó làm chướng ngại, những người như thế thì gọi là kẻ
phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên
(số 3) là đứng về tánh Viên Giác thanh tịnh bình đẳng mà nói, nên không có
Bồ tát và chúng sanh sai khác. Nhưng đứng về phương diện sự tướng tu
hành mà luận thì có lớp lang tu chứng rõ ràng. Bởi thế nên từ đoạn này
(số 4) về sau là nói thứ lớp nhập Viên Giác, bắt đầu từ vị Thập Tín, Tam
Hiền, Thập Thánh và đến quả Phật.
Ðại ý đoạn
này, nói hàng Thập Tín tùy thuận tánh Viên Giác - Bởi tất cả chúng sanh từ
vô thỉ đến giờ vì mê lầm chấp ta và cảnh vật của ta là chơn thật, cho nên
sanh ra tham, sân v.v.. Nếu gặp Thiện tri thức dạy bảo, chúng giác ngộ được
cái “ta” và “cảnh vật của ta” đều hư vọng, sanh diệt không thật, thì lúc
bấy giờ chúng mới trừ được ngã chấp, đặng pháp giới thanh tịnh. Nhưng,
vì còn “biết thanh tịnh”, thế là còn pháp chấp chưa trừ, nên còn chướng
ngại tánh Viên giác. Vì thế nên gọi là “chúng Phàm phu (vị Thập tín) tùy
thuận tánh Viên Giác”.
***********
5. Bồ
tát ở vị Tam hiền, tùy thuận tánh Viên giác
Này Thiện
nam! Tất cả các vị Bồ tát, vì còn chấp cái “biết thanh tịnh” (giác),
nên chướng ngại tánh Viên giác. Nay tuy đoạn được cái chướng ngại đó
(cái biết thanh tịnh) nhưng còn trụ ở cái “giác”. Như thế cũng còn cố
chấp ở nơi “giác”, nên tánh Viên giác vẫn còn bị chướng ngại, không được tự
tại. Bởi thế nên gọi là bực Tam hiền bồ tát, tùy thuận tánh Viên giác.
LƯỢC GIẢI
Các vị Bồ
tát này, tuy rời được cái “biết thanh tịnh”, nhưng còn cái “biết
giác”. Vì còn cái “biết giác” làm chướng ngại, nên tánh Viên giác
không được hiển hiện. Ðại ý đoạn này nói: Bực Tam hiền Bồ tát tùy
thuận tánh Viên Giác, Tam hiền là: Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng.
****
6. Bồ
tát lên thánh vị, tùy thuận tánh viên giác
Này Thiện nam!
Nếu còn “biết” (chiếu) và còn có “giác”, thì đều còn chướng ngại (vì còn
năng và sở)
-Thế nên Bồ
tát thường “giác” mà không trụ nơi “giác”, năng chiếu và sở chiếu đồng vắng
lặng. Bồ tát tự dùng tâm chướng ngại diệt trừ các chướng ngại (dĩ vọng
diệt vọng), khi các chướng ngại diệt hết, cũng không còn người năng diệt.
Thí như có người tự mình chặt lấy đầu mình, khi cái đầu đã rụng rồi, thì
cũng không có người chặt (năng đoạn).
Này thiện
nam! Tất cả kinh giáo của Như Lai đều như ngón tay để chỉ mặt trăng
Viên giác (chơn lý). Vậy các ông phải biết: đây là ngón tay kinh giáo
chớ không phải mặt trăng Viên giác. Nếu các ông chỉ cố chấp ngón tay,
thì không bao giờ thấy được mặt trăng. Những người biết nhơn ngón tay kinh
giáo này, mà nhận được mặt trăng Viên giác, thì gọi là Bồ tát lên thánh
địa, tùy thuận tánh Viên giác.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên
nói Bồ tát ở vị Tam Hiền còn “biết” và còn “giác”. Ðến đoạn này nói: Bồ tát
đã lên thánh địa, tuy thường “giác” mà không trụ trước nơi “giác”, vì không
còn năng và sở. Cũng như người ta tự chặt cái đầu của minh khi cái đầu
rụng rồi, thì không có người chặt và kẻ bị chặt.
Tất cả kinh
giáo của Phật đều là phương tiện để chỉ chơn lý (viên giác). Hành giả
phải nương các pháp phương tiện để đến chơn lý; nếu cố chấp nơi phương tiện
thì không bao giờ đến chơn lý
Giáo pháp
của Phật cũng như ngón tay chỉ mặt trăng. Người muốn thấy mặt trăng thì
phải nhơn ngón tay mà xem, khi thấy mặt trăng (chơn lý) rồi thì phải quên
ngón tay (phương tiện). Nếu cố chấp nơi ngón tay (phương tiện) thì người ấy
không bao giờ thấy mặt trăng chơn lý.
Cái thí dụ
này giống như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật thí dụ “ngón tay chỉ mặt trăng
v.v..”
*********
7. Như
Lai tùy thuận tánh Viên giác
-Này Thiện
nam! Tất cả sự chướng ngại tức là Cứu kính giác, chánh niệm hay vọng niệm
đều là giải thoát, trì giới hay phá giới đều là Niết bàn; trí huệ hay ngu
si cũng đều là Bát nhã; Bồ tát và ngoại đạo đồng là Bồ đề; Vô minh và chơn
như đồng một cảnh giới; giới, định, huệ và dâm, nộ (giận) si đều là hạnh
thanh tịnh; chúng sanh và quốc độ đồng một pháp tánh; địa ngục và thiên
đường đều làm Tịnh độ; hữu tình và vô tình đều thành Phật đạo; tất cả phiền
não là rốt ráo giải thoát, vì biển huệ pháp giới chiếu soi cả tướng cũng
như hư không. Ðây gọi là Như Lai tùy thuận tánh Viên giác.
LƯỢC GIẢI
Các đoạn
trên đã nói: từ vị Thập tín, thì bị cái “Biết tịnh” làm ngại; qua vị Tam
Hiền, lại bị cái “biết giác” làm ngại; đến vị Thập thánh, tuy đã lìa hết
các ngại, nhưng hãy còn cái “thường giác” chưa được viên dung.
Ðoạn này
nói về quả vị Phật, đã hoàn toàn nhập Viên giác tánh, thấy tất cả pháp đồng
một bản thể, nên nói: “các chướng ngại tức là cứu kinh giác, chánh niệm và
tà niệm đều là giải thoát, phiền não sanh tử tức là Bồ đề, Niết bàn, trí
huệ, ngu si đều là bát nhã v.v...”
Bởi thế nên
Cổ dức có dạy rằng: “Mê thời Chơn như thành vọng tưởng, ngộ thời vọng
tưởng, tức Chơn như”.
***
8. Tóm
lại
-Này thiện
nam! Các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thì giờ không
khởi vọng niệm phân biệt, đối với các vọng tâm cũng chẳng cần diệt trừ, ở
cảnh vọng tưởng, chẳng gia thêm phân biệt, ở nơi cảnh không rõ biết, chẳng
cần phân biệt chơn thật, khi nghe đến pháp môn này, không lấy làm lạ lùng
và kinh hãi, lại sanh tâm tin chắc, hiểu biết rõ ràng, lãnh thọ và phụng
trì, thì ta gọi chúng sanh này là người tùy thuận tánh Viên giác.
-Này thiện
nam! Các ông phải biết. Những chúng sanh tùy thuận như thế, là đã nhiều đời
tu hành, từng trồng rất nhiều công đức: “Cúng dường các đức Phật và các vị
Bồ tát nhiều như số cát sông Hằng. Ta ấn chứng cho những người này sẽ
thành tựu “nhứt thế chủng trí” (Phật trí).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật dạy cốt yếu có một câu: “chỉ trong tất cả thì giờ, không khởi vọng
niệm, v.v.. đó là tùy thuận tánh Viên Giác”. Nghĩa là: nếu trong tất
cả thời mà vọng niệm không sanh khởi, thì tham, sân, si không sanh; 3 độc
không sanh thì 3 nghiệp chẳng tạo, các nghiệp không tạo thì chẳng còn sanh
tử luân hồi; sanh tử đã không thời chơn tâm tư hiện, như thế là tùy thuận
tánh Viên giác. Tỷ như ly nước đục để trên bàn, nếu trong tất cả thì giờ
đều được yên lặng, không bị chao động, thì tánh nước trong tự hiện.
Ðoạn này
giống như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Bất tùy phân biệt” (không theo
trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt). Thật là một pháp tu mau chóng
(viên đốn), nếu không phải người nhiều kiếp tu hành, đã từng trồng căn
lành từ nhiều đời đức Phật, thì không thể lãnh thọ nỗi pháp môn này.
Tóm lại,
Phật dạy: Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thời không
khởi vọng niệm, cũng không cần để tâm diệt trừ vọng niệm v.v.. những chúng
sanh thật hành được như thế là căn lành của chúng đã trồng sâu từ nhiều đức
Phật, và chúng đã nhập được tánh Viên giác, sẽ thành quả Phật.
Ngài Thanh
Tịnh Huệ hỏi thứ lớp tu chứng của Như Lai, đến đây Phật trả lời xong hết.
*****
9. Phật
nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức
Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Thanh Tịnh
Huệ phải biết:
Viên mãn
tánh Bồ đề
Không còn
thủ và chứng,
Không bồ
tát, chúng sanh.
Giác và khi
chưa giác
Thứ lớp có
sai khác:
Chúng sanh
bị “biết” ngại (Thập tín)
Bồ tát bị
“giác” ngại (Tam hiền)
Thánh Ðịa
hằng vắng lặng (Thập thánh)
Vì không
trụ các tướng,
Viên mãn
quả Ðại giác,
Nên gọi
“khắp tùy thuận” (Phật)
Các chúng
sanh đời sau,
Tâm chẳng
sanh hư vọng,
Ta nói chúng sanh này,
Hiện đời là Bồ tát
Vì cúng dường chư Phật,
Công đức đã viên mãn
Tuy có nhiều phương tiện,
Cũng đều tùy thuận Giác.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này Phật dạy: Tánh Viên Giác không có thủ và chứng, không
Bồ tát và chúng sanh. Nhưng về thứ lớp tu hành thì có phân biệt ra Tín
vị, Hiền vị, Thánh vị, và Phật vị. Nếu như chúng sanh nào tâm chẳng
sanh vọng tưởng, là Bồ tát hiện tại, vì chúng sanh này đã trồng công đức từ
hằng sa chư Phật.
Pháp môn tu tuy có nhiều và thứ lớp chứng đạo có sai khác nhưng cũng
đều về tánh Viên giác.
Trong chương Thanh Tịnh Huệ này, Ngài Thanh Tịnh Huể hỏi Phật thứ lớp
tu chứng như thế nào? Phật trả lời có hai phần:
1. Ðứng về lý tánh Viên giác mà nói, thì không có bồ tát và chúng
sanh, không thủ và không chứng.
2. Về sự tướng tu hành, thì có thứ lớp sai khác. Như về Tín vị thì
bị cái “biết” (giả) làm ngại; ở về Hiền vị thì còn bị cái “giác” làm ngại;
vào Thánh vị tuy được tịch diệt nhưng chưa được viên mãn.
Tóm lại, Phật dạy một câu “nếu người đối với tất cả thời, không khởi
vọng niệm, thì được tùy thuận tánh Viên giác”.
▲
Trở Lên
|
BÀI THỨ
BẢY
VII. CHƯƠNG OAI ÐỨC TỰ TẠI
1. Ngài Oai
Ðức Tự tại Bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Oai Ðức Tự tại Bồ tát
3. Phật dạy: Cảnh “Viên giác” không hai, nhưng phương tiện vào có nhiều
đường
4. Tu pháp “Xa ma tha”.
5. Tu pháp “Tam ma bát đề”
6. Tu pháp “thiền na”.
7. Tu pháp phương tiện này lợi ích rất lớn,
8. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên.
VII. CHƯƠNG OAI ÐỨC TỰ TẠI
1. Ngài Oai Ðức Tự tại Bồ tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài Oai Ðức tự tại Bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh
bên hữu của Phật ba vòng rồi chắp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân Phật và
quỳ thẳng bạch rằng:
-Bạch đức Ðại bi Thế Tôn, xin Ngài vì chúng con, phân biệt chỉ dạy
“phương tiện để nhập Viên giác tánh (1) của Phật mà giác tâm được quang
minh, chẳng nhơn tu hành mà vẫn được lợi ích lớn.
Bạch đức Thế Tôn, thí như cái thành lớn (Viên giác) có bốn cửa (các
phương tiện), hành giả muốn vào cửa nào cũng được, đâu phải chỉ có một con
đường.
Cũng thế, các vị Bồ tát tu hành, làm trang nghiêm cõi Phật và thành đạo
Bồ đề đâu phải chỉ có một phương tiện. Cúi xin đức Thế Tôn vì chúng
con chỉ dạy các phương tiện tu hành và thứ lớp làm sao, để các vị Bồ tát
trong pháp hội này và chúng sanh đời sau cầu pháp Ðại thừa, đều được khai
ngộ và mau vào biển Ðại tịch diệt (viên giác) của Như Lai.
Ngài Oai Ðức Tự Tại Bồ tát thưa thỉnh như vậy 3 lần, chắp tay kính cẩn,
lễ Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói: Thành Viên Giác không hai, nhưng cửa phương tiện đi
vào rất nhiều. Xin Phật vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời
sau tu Ðại thừa, chỉ dạy các phương tiện và thứ lớp tu hành như thế nào, để
hành giả mau được vào thành Viên Giác.
Kinh Lăng Nghiêm chép: “Quy nguyện tánh vô nhị, phương tiện hữu đa
môn”. (Trở về tánh “Bản nguyên” thì không hai, nhưng phương tiện đi
vào lại có nhiều cửa).
(1) Viên âm (là tiếng tròn): Tiếng nói của Phật đầy đủ ý nghĩa, tùy
theo trình độ của người cao thấp đều được hiểu ngộ.
2. Phật khen Ngài Oai Ðức Tự Tại bồ tát
Khi đó đức Thế Tôn khen Ngài Oai Ðức Tự Tại Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện
nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau,
thưa hỏi Như Lai về các phương tiện tu hành. Ông nên chăm chú nghe, ta
sẽ vì các ông chỉ dạy.
Khi đó Ngài
Oai Ðức Tự Tại Bồ tát cùng với đại chúng cùng yên lặng, chăm chú và hoan hỷ
nghe lời Phật chỉ giáo.
3. Phật
dạy: Cảnh “Viên giác” không hai nhưng phương tiện vào có nhiều đường
-Này Thiện
Nam! Tánh viên giác nhiệm mầu vô thượng này, nó trùm khắp cả 10 phương
và sanh ra chư Phật cùng tất cả các pháp. Bởi tất cả chúng sanh cùng
với chư Phật đồng một bản thể bình đẳng không khác, nên người tu hành khi
đã trở về tánh Viên Giác, thì thật ra không có hai nơi; song những phương
tiện để nhập Viên giác lại có vô lượng
Vì trình độ
của chúng sanh không đồng, nên các phương tiện trở về tánh Viên Giác có sai
khác, nhưng không ngoài ba phương tiện sau này.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này nói: “Viên giác không hai, song phương tiện tu hành để nhập
Viên Giác thì có nhiều pháp. Nhưng không ngoài ba pháp môn là: Chỉ, Quán và
Chỉ Quán song tu ở đây.
4. Tu pháp “Xa ma tha” (tứ là tu chỉ hoặc gọi là tu định)
-Này Thiện nam! Nếu các Bồ tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh rồi,
thì y theo tâm Viên Giác thanh tịnh này mà giữ cái hạnh yên lặng và lóng
các vọng niệm. Khi các giác quan vọng thức phiền động đã lặng rồi, thì
trí huệ thanh tịnh phát sanh. Lúc bấy giờ cái thân tâm hư vọng sanh
diệt như khách và nhiễm ô như bụi này, từ đây diệt hết. Khi đó trong
nội tâm của hành giả sanh ra vắng lặng và nhẹ nhàng thư thới (tịch tịnh
khinh an) nên chư Phật trong mười phương thế giới đều hiện ra trong tâm của
hành giả, rất rõ ràng như bóng hiện trong gương. Phương tiện tu hành
như thế, gọi là “Xa ma tha”
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật nói: “Bồ tát khi ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh
rồi, thì dùng tâm thanh tịnh này để lóng các phiền não vọng thức. Khi
các căn cáu phiền não đã lóng đứng rồi, thì trí huệ thanh tịnh phát
sanh. Lúc bấy giờ hành giả quan sát lại thân tâm hư vọng như khách,
huyễn hóa lăng xăng như bụi đều diệt hết (ngã, pháp không còn).
Bởi các vọng hoặc nhiễm ô đã diệt hết, tâm được thanh tịnh, nên 10 phương
chư Phật hiện ra trong tâm của hành giả. Cũng như ly nước được lóng
trong, thì các bóng ngoài hiện trung” (nếu tâm chúng sanh được thanh tịnh,
thì bóng Bồ Ðề tự hiện vào)
Lưu ý: Trong kinh nhày
nói: “Chỉ, quán”, không đồng với “Chỉ, quán” của Tiểu thừa. Vì “Chỉ,
quán” của Tiểu thừa là phải dùng phương tiện của bên ngoài để tu. Còn
lối “chỉ, quán” của Ðại thừa là xứng theo bản thể của chơn tâm mà “chỉ” và
“quán”, nên có phần cao siêu hơn.
5. Tu pháp “Tam ma bát đề” (tức là tu quán, hoặc gọi tu huệ)
-Này Thiện nam! Nếu các Bồ tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh rồi,
thì y theo tâm Viên Giác thanh tịnh mà quán sát tâm tánh, thân căn và trần
cảnh này đều là vật huyễn hóa. Lúc bấy giờ Bồ tát khởi ra cái trí như
huyễn để trừ các pháp như huyễn; làm các hạnh như huyễn để hóa độ chúng
sanh như huyễn. Bởi bồ tát tu pháp quán như huyễn này, nên phát đại bi
tâm(1) thương xót cứu khổ tất cả chúng sanh mà vẫn nhẹ nhàng thư thới
(đại bi khinh an) không tham trước luyến ái nơi chúng sanh.
Tất cả Bồ tát, đều y theo pháp quán như huyễn này mà tu hành, lần lần
tăng tiến. Ban đầu quán cảnh là huyễn, nhưng người quán chưa phải
huyễn; sau người quán cũng là huyễn và cuối cùng hoàn toàn xa lìa các tướng
huyễn (lúc bấy giờ cái phi huyễn hiện ra). Thế là Bồ tát đã hoàn thành
được pháp quán mầu nhiệm này. Bồ tát lần lượt tiến tu, cũng như đất
làm cho mầm mộng lần hồi được sanh trưởng. Phương tiện tu như thế, gọi
là “Tam ma bát đề”.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật dạy: “Khi bồ tát ngộ được Viên giác thanh tịnh rồi,
y nơi tâm Viên giác này mà quán các pháp, nào căn, trần và thức đều là
huyễn hóa. Lúc bấy giờ Bồ tát khởi cái trí như huyễn để diệt các vô
minh phiền não như huyễn, tu các hạnh như huyễn, để hóa độ chúng sanh như
huyễn. Ðến khi các huyễn cảnh đã không, huyễn trí cũng hết, nào tâm,
cảnh, năng sở đều tiêu, hoàn toàn xa lìa các huyễn tướng rồi, thì tánh Viên
giác phi huyễn hiện ra. Như tiếng ồn của học trò hết tiếng, gõ bảng
của thầy giáo thôi, lúc bấy giờ cảnh yên tịnh hiện ra.
Thí như người ngủ, chiêm báo thấy giặc bao vây, đem bệnh diệt trừ
v.v.. Khi giặc trong chiêm bao tan (cảnh huyễn hết) binh lính hết
(người quán huyễn không) và tâm chiêm bao cũng không còn (huyễn trí hết)
thì tâm giác ngộ tự nhiên hiện vậy (Viên giác hiện)
Bồ tát y theo tánh Viên giác tu pháp quán như huyễn này, từ chỗ cạn đến
chỗ sâu, ly được một phần huyễn tức là chứng được một phần giác. Cũng
như cái mầm chồi, y nơi đất mà lần hồi nảy nở.
Kinh này Phật dạy tu pháp quán như huyễn, giống như kinh Kim Cang Phật
dạy:
Nhứt thế hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán
Nghĩa là:
Nên quán như thế này:
Cái gì có làm ra
Ðều như mộng, huyễn, bọt
Như bóng, sương và chớp
Lưu ý: Nhờ pháp “chỉ” mới dừng đứng các vọng niệm đương khởi và sẽ khởi
bên trong. Khi vọng niệm không còn khởi, thì “chơn tánh” tự hiện bày.
Nhờ pháp “Quán” mới rõ các cảnh hiện tiền như huyễn, để đối trị âm
thanh luyến thân, cảnh và xa lìa ngã chấp, pháp chấp. Khi ngã pháp hết
thì Viên Giác hiện ra
Bồ tát phát tâm Ðại bi: Bồ tát nhận thấy tất cả chúng sanh cùng
với mình đồng một bản thể chơn như bình đẳng không hay không khác. Vì
thế mà Bồ tát phát tâm thương xót tất cả chúng sanh, nên gọi là “Ðại bi
tâm”
Bồ tát rộng độ chúng sanh, mà không thấy chấp có mình năng độ và người
được độ. Bởi không chấp tướng “ngã, nhơn,” như thế, nên Bồ tát làm
không biết bao nhiêu việc lành, độ vô số chúng sanh mà tâm vẫn nhẹ nhàng
thư thái (kinh an).
6. Tu pháp “Thiền na” (tức là chỉ, quán đồng thời tu, hay gọi
là Ðịnh huệ song tu)
-Này Thiện nam! Nếu các Bồ tát ngộ được Viên giác thanh tịnh tâm
rồi, thì y như tâm Viên giác này mà tu: Không chấp thủ pháp “Quán như
huyễn”, và pháp “chỉ tịch tịnh”. Bồ tất rõ biết thân tâm này đều là
vật ngăn ngại, còn tánh Viên Giác (vô tri giác minh) thì không bị các vật
làm chướng ngại, lại còn siêu vượt ra ngoài những cảnh chướng ngại (sanh
tử) và không chướng ngại (Niết bàn); nó vẫn thọ giới dụng thế giới và thân
tâm ở trong cõi trần này, mà không bị cảnh trần ràng buộc, mặc dù phiền não
hay Niết bàn cũng không làm lưu ngại nó được. Thí như tiếng “boong”
của chuông, tuy ở nơi chuông mà vẫn thoát ra ngoài chuông.
Bồ tát lúc bấy giờ, ở nơi nội tâm được vắng lặng. Rất nhẹ nhàng
thư thái, nào ngã, nhơn chúng sanh, thọ mạng, bốn tướng đều chẳng còn và
được tùy thuận cảnh giới Viên giác tịch tịnh mầu nhiệm. Bồ tát tu pháp
phương tiện này, gọi là tu “Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Thiền na Tàu dịch là “Tính lự”. Chữ “Tính” tức là “chỉ”
(Ðịnh). Chữ “Lự” tức là “Quán” (huệ).
-"Pháp Xa ma tha” thì tu về “Chỉ là Ðịnh"
-Pháp “Tam ma bát đề” tu về “Quán là huệ"
-Pháp “Thiền na” này Chỉ và Quán đều tu, khiến cho Ðịnh và Huệ được
quân bình.
Ðại ý đoạn này nói: Bồ tát khi ngộ được tâm viên giác thanh tịnh rồi, y
theo tâm này mà tu, không dùng pháp “Chỉ” và “Quán”. Bồ tát rõ biết thân
tâm này đều là vật chướng ngại, mà tánh Viên giác không chướng
ngại. Mặc dù thọ dụng thân này, tâm này và thế giới trần cảnh này, mà
tánh Viên giác vẫn hoàn toàn siêu vượt ra ngoài các cảnh chướng ngại và
không chướng ngại, cho đến phiền não hay Niết bàn cũng không lưu ngại nó
được. Cũng như tiếng “boong” của chuông, vượt ra ngoài chuông.
Khi đó Bồ tát diệt hết bốn tướng (ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng),
nhập vào cảnh giới Viên giác. Bồ tát tu phương tiện này gọi là tu
“Thiền na”.
7. Tu pháp phương tiện này lợi ích rất lớn
-Này thiện nam! Ba pháp môn này, đều là phương tiện để nhập Viên
giác tánh. Mười phương các đức Phật đều nhơn phương tiện này mà được
thành Phật. Mười phương các vị Bồ tát, tu các phương tiện hoặc đồng
hay khác, nhưng cũng đều y ba pháp môn này mà được chứng ngộ hay thành Viên
giác.
-Này Thiện nam! Giả sử có người tu theo đạo Phật, hoá độ được muôn
ức vị A La Hán và Bích Chi Phật, nhưng lợi ích không bằng có người chỉ
trong giây phút tùy thuận và tu tập pháp môn Viên giác vô ngại này.
LƯỢC GIẢI
Ba pháp môn “chỉ, quán và chỉ quán song ty” này là cái phương tiện để
nhập Viên giác tánh . Tất cả chư Phật và Bồ tát cũng đều y theo ba pháp môn
này mà được thành đạo chứng quả.
Những người giáo hóa ngàn muôn ức Thinh văn và Duyên giác tuy nhiều,
nhưng thuộc về Tiểu thừa quả, nên sự lợi ích không bằng người trong giây
phút, tùy thuận tánh Viên giác. Vì tùy thuận tánh Viên Giác tức là
vào cảnh giới Phật, nên lợi ích lớn hơn.
8. Phật nói bài kệ tóml ại nghĩa trên
Khi đó Ðức Thế tôn muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Oai Ðức! Ông nên biết:
Viên giác tánh không hai,
Phương tiện tu có nhiều.
Như Lai tóm chỉ bày
Không ngoài ba pháp này:
Tu pháp “chỉ” vắng lặng
Như bóng chiếu trong gương.
Tu pháp “Quán” như huyễn
Như mộng (mầm, chồi) lần lần lớn
Chỉ, Quán đồng thời tu,
Như tiếng
“boong” của chuông.
Ba pháp môn
mầu nhiệm,
Ðều tùy
thuận Viên giác.
Mười phương
các đức Phật,
Và các đại
bồ tát,
Nhơn đây
được thành đạo
Ba pháp,
chứng hoàn toàn
Là rốt ráo
Niết bàn
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài
kệ này Phật nói: Tánh viên giác không hai, nhưng các phương tiện tu hành có
vô số. Song, không ngoài 3 pháp môn là: Chỉ, Quán và Chỉ Quán song
tu. Các Ðức Phật và các vị Bồ tát cũng đều y ba pháp này mà được thành
đạo. Chứng 3 pháp này được hoàn toàn thì rốt ráo quả Niết bàn.
Ba pháp môn
này cũng đều gọi là ba pháp “Chỉ” hay ba pháp “Quán”
1. Xa ma
tha là “thể chơn chỉ”, tức là “không quán”, y theo chơn đế mà tu
2. Ta
ma bát đề là “phương tiện tùy duyên chỉ” tức là “giả quán”, y theo tục đế
để mà tu.
3. Thiền na
là “nhị biên phân biệt chỉ”, tức là “trung quán”, y theo trung đế để mà tu.
Nếu phân
tách mà nói, thì ba pháp Chỉ gọi là “Xa ma tha”, còn ba pháp Quán gọi là
“Tam ma bát đề”. Chỉ và Quán không hai gọi là “Thiền na”.
▲
Trở Lên
|
BÀI THỨ TÁM
VIII. CHƯƠNG BIỆN ÂM
1. Ngài
Biện Âm Bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Biện Âm Bồ tát
3. Phật dạy 25 pháp tu (25 luân)
4. Tóm lại
5. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
VIII.
CHƯƠNG BIỆN ÂM
1. Ngài
Biện Âm bồ tát hỏi Phật
Khi đó NGài
Biện Âm bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba
vòng, rồi lạy Phật và quỳ thẳng bạch rằng:
-Bạch đức
Ðại bi Thế Tôn, vừa rồi Ngài dạy ba pháp môn tu hành như thế, rất là hy
hữu.
Nhưng các
vị Bồ tát, khi muốn nhập Viên giác, đối với ba pháp môn phương tiện này, có
mấy cách tu tập?
Cúi xin đức
Thế Tôn, vì cả đại chúng hiện tại và chúng sanh đời sau, phương tiện mở
bày, khiến cho chúng con đều ngộ được tướng chơn thật (viên giác).
Thưa thỉnh
như vậy 3 lần, rồi Ngài Biện Âm kính cẩn lạy Phật và trở lui.
LƯỢC GIẢI
Vừa rồi ở
chương Oai Ðức Tự tại, Phật dạy có 3 pháp môn tu là “Chỉ, quán và chỉ quán
song tu”, rất rõ ràng.
Ðến chương
này Ngài Biện Âm Bồ tát lại hỏi thêm ba pháp môn phương tiện trên, có mấy
cách tu. Nghĩa là mỗi người chỉ tu một pháp hay cả ba pháp? Ba
pháp này tu đồng thời hay có trước sau? Phải theo thứ lớp tu hay
vượt qua thứ lớp?
2.
Phật khen Ngài Biên Âm Bồ tát
Khi đó đức
Thế Tôn khen ngài Biện Âm bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện
nam, quý lắm! Ông vì đại chúng hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa
hỏi Như Lai có bao nhiêu cách tu tập. Ông nên chăm chú nghe, Như Lai sẽ vì
các ông mà chỉ giáo.
Khi đó NGài
Biện Âm bồ tát, cùng với Ðại chúng đồng yên lặng và hoan hỷ nghe lời Phật
dạy bảo.
3.
Phật dạy 25 pháp tu
-Này Thiện
nam! Tánh Viên giác thanh tịnh của tất cả Như Lai, vốn không có pháp
bị tu và người tu tập. Song vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh
đời sau, chưa nhập được Viên giác, còn phải phương tiện dùng huyễn pháp để
tu tập, vì thế nên chia ra có 25 cách tu như sau:
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này nói: Xứng về tánh “Viên giác thanh tịnh” thì không có người tu và pháp
để tu. Song vì chúng sanh chưa giác ngộ, còn phải dùng phương tiện tu
tập, vì thế nên Phật chia ra có 25 pháp môn tu.
Tuy chia ra
25 pháp môn tu, nhưng vẫn y theo 3 pháp là “Chỉ quán và Chỉ quán đồng thời
tu” mà Phật đã dạy ở chương trước. Có khi tu chung hai pháp, ba pháp,
mà có lúc lại riêng từng pháp một, hoặc tu trước, hoặc tu sau, tùy theo
trình độ của chúng sanh xây qua trở lại thành 25 pháp; song tu pháp nào
cũng đều chứng nhập được viên giác.
1. Riêng tu một pháp “xa ma tha” (tu định)
-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát giữ tâm rất vắng lặng, nhờ sức vắng
lặng này, mà đoạn các phiền não, được vĩnh viễn thành tựu rốt ráo tánh Viên
giác, thì vị Bồ tát ấy lúc bấy giờ chẳng rời chỗ ngồi mà vẫn nhập được Niết
bàn, Bồ tát tu như thế, gọi là chỉ tu một pháp “Xa ma tha” (tu chỉ).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát riêng tu một pháp “Chỉ”. Bồ tát giữ gìn tâm
trạng rất tinh tịch, nên phiền não không sanh, đó là tu pháp
“Chỉ”. Nhờ thế mà Bồ tát được rốt ráo thành tựu tánh “Viên giác”, đặng
quả Niết bàn của Chư Phật.
2. Riêng tu một pháp “Tam ma bát đề” (tu huệ)
-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát chỉ tu pháp quán “như huyễn”, và nhờ
sức Phật gia hộ, nên Bồ tát ấy biến hóa ra được thế giới, thì mặc dù Bồ tát
làm các diệu dụng độ sanh (tu quán), đầy đủ công hạnh mầu nhiệm của Bồ tát;
nhưng vẫn không mất niệm tịch tịnh (Ðịnh) và Huệ yên lặng (Huệ) của Ðà La
Ni (Viên giác). Bồ tát tu như thế, gọi là riêng tu một pháp “Tam ma
bát đề”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát riêng tu một pháp “Quán”. Bồ tát khi tu pháp
quán như huyễn, và nhờ thần lực của Phật, nên biến hiện thế giới uế độ
thành Tịnh độ, biến địa ngục trở thành Thiên cung, vì các pháp đều như
huyễn như hóa. Tu như thế là tu “Quán”. Bồ tát mặc dù làm đủ công
hạnh lợi tha, mà không rời bản thể thường tịch (Ðịnh) và thường chiếu (huệ)
của tánh viên giác.
Chữ “Ðà la ni” ở chương này, đồng với chữ “đà la ni” trong chương Văn
Thù, tức là biệt danh của tánh Viên giác, như trong chương Văn Thù chép:
“Có pháp Ðại Ðà La Ni gọi là Viên giác”
3. Riêng tu pháp “Thiền na” (định, huệ đồng tu)
-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát chỉ diệt các huyễn, không chấp thủ
tác dụng, riêng đoạn các phiền não, khi phiền não đoạn hết rồi, thì
chứng được thật tướng, Bồ tát tu như thế, gọi là riêng tu pháp “Thiền na”
(chỉ, Quán song tu).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát đồng thời tu các “chỉ” và “quán”. Bồ tát “chỉ
diệt các huyễn”, tức là không dùng “Ta ma bát đề” như đã nói ở trước (không
tu quán như huyễn); “không chấp thủ tác dụng” tức là không tu “xa ma tha”
như dã nói ở trước (không tu chỉ); “riêng đoạn phiền não” tức là tu “Thiền
na” (Chỉ, quán song tu). Khi đoạn hết phiền não thì Bồ tát chứng đặng
thật tướng, tức là tu “thiền na” mà nhập viên giác tánh.
4. Trước tu “định” sau tu “huệ”
-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát trước giữ gìn nơi rất tịnh (chỉ) sau
dùng tịnh huệ (huệ yên tịnh) chiếu soi các pháp như huyễn như hóa, lúc bấy
giờ khởi ra hạnh Bồ tát. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Xa ma
tha” (chỉ) sau tu “Tam ma bát đề” (Quán)
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Chỉ” sau tu “Quán” - Bồ tát trước giữ tâm
rất tịnh là tu “chỉ”, rồi dùng trí huệ yên tịnh mà chiếu soi các pháp như
huyễn là tu “Quán”. Lúc bấy giờ Bồ tát trên thì cầu đạo Phật, dưới hóa
độ chúng sanh, đó là thực hành Bồ tát hạnh.
5. Trước tu “định” sau “định,huệ đồng thời tu”
-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát, dùng, trí huệ yên tịnh, chứng đặng
thể tánh rất tịnh, rồì đoạn các phiền não, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử. Bồ
tát tu như thế, gọi là trước tu “xa ma tha” (chỉ) sau tu “thiền na” (chỉ,
quán song tu)
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Chỉ" sau “chỉ, Quán song tu” - Bồ
tát dùng trí huệ yên tịnh, chứng được tánh rất tịnh là tu “chỉ”, đoạn hết
các phiền não, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử luân hồi là “chỉ, quán song tu”.
6. Trước tu “Ðịnh”, thứ tu “Huệ, sau “Ðịnh, Huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát, dùng trí huệ thanh tịnh, lấy sức huyễn
hóa biến hiện ra các hình thức, để hóa độ chúng sanh; sau đoạn các phiền
não, rồi nhập vào cảnh giới tịch diệt. Bồ tát tu như thế, gọi là
trước tu “xa ma tha” (chỉ) thứ tu “tam ma bát đề” (quán) sau tu “Thiền na”
(Chỉ, quán song tu).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “chỉ”, thứ tu (quán), sau “chỉ, quán song
tu”. -Bồ tát dùng trí huệ thanh tịnh là tu “chỉ”, lấy sức như huyễn
mà biến hiện ra nhiều hình thức để độ chúng sanh là tu “Quán”. Sau Bồ tát
đoạn phiền não rồi vào tịch diệt là “chỉ, quán song tu”.
7. Trước tu “Ðịnh” thứ “Ðịnh, Huệ song tu”, sau tu “huệ”
-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức rất tịnh, đoạn các phiền
não rồi, sau khởi cái hạnh thanh tịnh mầu nhiệm của Bồ tát, để độ các chúng
sanh. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Xa ma tha”, thứ tu “Thiền
na”, sau tu “Tam ma bát đề”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Chỉ”, thứ “chỉ, quán song tu”, sau tu
“Quán” - Bồ tát trước tu “chỉ” được rất tịnh, rồi tiến tu “Thiền na” (Chỉ,
quán song tu) để đoạn phiền não. Khi phiền não hết rồi thì Bồ tát vào
trần lao độ sanh, đặng diệu hạnh tự tại vô ngại, không còn lo sợ nhiễm
trước.
8. Trước tu “Ðịnh”, sau đồng thời tu “Huệ” và “Ðịnh, Huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức rất tịnh của tâm, đoạn trừ
phiền não và dựng lập thế giới, hóa độ chúng sanh. Bồ tát tu như thế,
gọi là trước tu “Xa ma tha” sau đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát truớc tu “Chỉ”, sau đồng thời tu “Quán” và “Chỉ,
Quán song tu” - Bồ tát dùng sức rất tịnh là tu “Chỉ”, đoạn trừ các phiền
não là tu “Thiền Na”, dụng lập thế giới và hóa độ chúng sanh là tu “Quán”
9. TRước đồng thời tu “Ðịnh” và “Huệ” sau “Ðịnh, Huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức rất tịnh, giúp cho việc
biến hóa, sau đoạn các phiền não. Bồ tát tu như thế, gọi là trước đồng
thời tu “Xa ma tha” và “Tam ma bát đề” sau tu “Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Chỉ” và “Quán” sau “Chỉ,
Quán song tu”. Bồ tát dùng sức rất tịnh là tu “chỉ” giúp việc biến hóa
là tu “Quán”, sau đoạn phiền não là “Chỉ, Quán song tu”.
10. Trước đồng thời tu “Ðịnh” và “Ðịnh, Huệ song tu” sau tu “huệ”
-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức rất tịnh, giúp cho tịch
diệt; sau rồi khởi tác dụng, biến hóa thế giới. Bồ tát tu như thế, gọi
là trước đồng thời tu “xa ma tha” và “Thiền na”, sau tu “Tam ma bát đề”
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Chỉ” và “Chỉ, Quán song tu”,
sau tu “Quán”. - Bồ tát dùng sức rất tịnh, để đoạn phiền não, mà vẫn giữ
tịch diệt, tức là đồng thời tu “Chỉ” và tu “Thiền na”. Sau dùng diệu
hạnh của bồ tát ra thế giới hóa độ chúng sanh, tức là tu “Quán”. Từ
pháp tu thứ tư, đến pháp tu thứ mười này cộng 7 pháp đều là trước tu “Chỉ”.
11. Trước tu “huệ” sau tu “Ðịnh”
-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức biến hóa tùy thuận theo các
chúng sanh để hóa độ, mà vẫn giữ tánh rất tịnh Bồ tát tu như thế, gọi là
trước tu “Tam ma bát đề”, sau tu “Xa ma tha”
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán”. Sau tu “Chỉ”. – Bồ tát dùng
sức biến hóa, tùy thuận theo các chúng sanh để hóa độ là tu “Quán”, mà vẫn
giữ tánh rất tịnh là tu “chỉ”.
12. Trước tu “huệ” sau “Ðịnh, Huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát, dùng sức biến hóa, hoá hiện ra các
cảnh giới mà vẫn giữ tịch diệt (vắng lặng). Bồ tát tu như thế gọi là trước
tu “Tam ma bát đề” sau tu “thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát tu trước “Quán” sau “Chỉ, quán song tu”. - Bồ tát
dùng sức biến hóa là tu “Quán”, biến ra các cảnh giới, để hóa độ chúng sanh
mà vẫn giữ tịch diệt, thế là “Chỉ, Quán song tu”.
13. Trước tu “Huệ” thứ tu “Ðịnh” sau “Ðịnh, Huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, làm các Phật sự
mà vẫn ở yên nơi tịch tịnh, đoạn các phiền não, Bồ tát tu như thế, gọi là
trước tu “Tam ma bát đề” thứ tu “Xa ma tha” sau tu “thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán” thứ tu “chỉ”, sau “chỉ, quán song
tu”. - Bồ tát dùng sức biến hóa làm các Phật sự là tu “Quán”, yên ở chỗ
vắng lặng là tu “chỉ”, đoạn phiền não là “Chỉ quán song tu”
14. Trước tu “huệ” thứ “Ðịnh, Huệ đồng thời tu” sau tu “Ðịnh”
-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, làm các việc
không ngại, đoạn các phiền não và an trụ nơi rất tịnh. Bồ tát tu như
thế gọi là trước tu “Tam ma bát đề” thứ tu “Thiền na”, sau tu “Xa ma tha “
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán”, thứ “chỉ, quán song tu”, sau tu
“Chỉ”. - Bồ tát dùng sức biến hóa làm các việc vô ngại là tu “Quán”, đoạn
các phiền não là “Chỉ, Quán song tu”, an trụ nơi rất tịnh là tu “Chỉ”.
15. Trước tu “Huệ” sau đồng thời tu “định” và “định, huệ song tu”
-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa làm các phương
tiện và tùy thuận hai pháp: rất tịnh (chỉ) và tịch diệt (thiền na). Bồ
tát tu như thế, gọi là trước tu “Tam ma bát đề” sau đồng thời tu “Xa ma
tha” và “Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán”, sau đồng thời tu “chỉ” và “chỉ,
quán song tu”. - Bồ tát dùng sức biến hóa làm các phương tiện là tu “Quán”,
tùy thuận tánh rất tịnh là tu “chỉ”, và tùy thuận tịch diệt là “Chỉ, quán
song tu”.
16. Trước đồng thời tu “huệ” và “Ðịnh” sau tu “Thiền na” (định,
huệ song tu)
-Này thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, khởi ra các công
dụng, giúp cho tánh rất tịnh, sau đoạn các phiền não. Bồ tát tu như
thế, gọi là trước đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “Xa ma tha”, sau tu
“Thiền na”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Quán” và “chỉ”, sau “chỉ,
Quán song tu”. – Bồ tát dùng sức biến hóa, khởi ra các công dụng là tu “Quán”,
giúp cho tánh rất tịnh là tu “chỉ”, sau đoạn các phiền não là “chỉ, quán
song tu”.
17. Trước đồng thời tu “Huệ” và “Ðịnh, Huệ song tu”, sau tu
“Ðịnh”.
-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, giúp với tịch
diệt, sau an trụ nơi tánh định thanh tịnh, không do tạo tác. Bồ tát tu
như thế, gọi là trước đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “thiền na”, sau tu
“xa ma tha”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Quán” và “chỉ, quán song tu”,
sau tu “chỉ”. - Bồ tát dùng sức biến hóa là tu “Quán”, giúp với tịch diện
là “Chỉ, quán song tu”, sau an trụ nơi tánh định thanh tịnh sẵn có, không
do tạo tác, là tu “chỉ”.
Câu “Tánh định thanh tịnh không do tạo tác” là chỉ cho “tu tánh chơn
định” sẵn có và thanh tịnh, không do tạo tác mà thành, cũng không phải dụng
công tu tập mà được, xưa nay nó vẫn thanh tịnh.
18. Trước “Ðịnh, Huệ song tu” sau tu “định”
-Này thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức tịch diệt (vắng lặng) khởi
hạnh rất ịnh, rồi an trụ nơi thanh tịnh. Bồ tát tu như thế, gọi là
trước tu “Thiền na”, sau tu “Xa ma tha”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Chỉ, quán song tu” sau tu “chỉ”. - Bồ tát
dùng sức tịch diệt, khởi tánh rất ịnh là “chỉ quán song tu” rồi an trụ nơi
thanh tịnh là tu “chỉ”.
19. Trước “Ðịnh, Huệ song tu” sau tu “huệ”.
-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức tịch diệt, khởi ra tác
dụng, tuy đối các cảnh, mà vẫn tùy thuận nơi tịch tịnh. Bồ tát tu như
thế, gọi là trước tu “Thiền na”, sau tu “Tam ma bát đề”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ quán song tu”, sau tu “Quán”. - Bồ tát
dùng sức tịch diệt khởi ra tác dụng độ sanh là “Chỉ, quán song
tu”. Mặc dù Bồ tát làm các hạnh lợi sanh mà vẫn tùy thuận nơi tịch
tịnh là tu “Quán”.
20. Trước “Ðịnh, Huệ song tu” thứ tu “Ðịnh” sau tu “huệ”
-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, quán tự tánh các
chúng sanh, an trụ nơi Ðịnh, mà vẫn biến hóa các pháp để độ sanh. Bồ
tát tu như thế, gọi là trước tu “Thiền na”, thứ tu “Xa ma tha” sau tu “tam
ma bát đề”
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, quán song tu”, thứ tu “chỉ”, sau tu
“Quán” - Bồ tát dùng sức tịch diệt, quán tự tánh các chúng sanh để hóa độ,
là “chỉ, quán song tu”; an trụ nơi Ðịnh là tu “chỉ”, biến hóa các pháp để
độ sanh là tu “Quán”.
21. Trước “Ðịnh, Huệ song tu” thứ tu “Huệ”, sau tu “Ðịnh”
-Này thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức tịch diệt của tự tánh vô
tác, để khởi ra tác dụng độ sanh, rồi y nơi cảnh giới thanh tịnh mà trở về
nơi Ðịnh. Bồ tát tu như thế, thì gọi là trước tu “Thiền na”, thứ tu
“Tam ma bát đề”, sau tu “Xa ma tha”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, Quán song tu” thứ tu “Quán” sau tu
“chỉ”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt của tự tánh vô tác, để khởi ra tác dụng
độ sanh, là “chỉ, quán song tu”. Bồ tát y nơi cảnh giới thanh tịnh là
tu “Quán”, sau trở về nơi Ðịnh là tu “chỉ”.
Chữ “Tự tánh vô tác”, nghĩa là: tự tánh sẵn có không do tạo tác mà
thành.
22. Trước tu “thiền na” (Ðịnh, huệ song tu) sau đồng thời tu “Ðịnh
và huệ”
-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, mỗì mỗi thanh
tịnh, an trụ ở nơi Ðịnh, mà khởi ra các món biến hóa. Bồ tát tu như
thế, gọi là trước tu “Thiền na”, đồng thời tu “Xa ma tha” và “Tam ma bát
đề”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, Quán song tu” sau đồng thời tu “Chỉ” và
“quán”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt, mỗi mỗi thanh tịnh là “Chỉ, Quán song
tu” an trụ ở nơi định là tu “chỉ” khởi ra các món biến hóa là tu “Quán”.
23. Trước đồng thời tu “thiền na” và tu “Ðịnh” sau tu “huệ”
-Này thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, giúp cho tánh
rất tịnh, sau khởi ra việc biến hóa. Bồ tát tu như thế, gọi là đồng
thời tu “Thiền na” và “Xa ma tha” sau tu “Tam ma bát đề”
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời “Chỉ, Quán song tu” và tu “Chỉ” sau
tu “Quán”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt là “Chỉ, quán song tu”, giúp cho
tánh tất tịnh là tu “Chỉ”, khởi ra các việc biến hóa là tu “Quán”
24. Trước đồng thời tu “thiền na” và “huệ”, sau tu “Ðịnh”
-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt giúp việc biến
hóa, sau khởi tánh rất tịnh, ở cảnh giới trí huệ trong sáng. Bồ tát
như thế, gọi là đồng thời tu “Thiền na” và “Tam ma bát đề” sau tu “Xa ma
tha”
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời “chỉ, quán song tu” và tu “Quán”,
sau tu “chỉ”. – Bồ tát dùng sức tịch diệt là “chỉ, quán song tu”, giúp việc
biến hóa là tu “Quán”, sau khởi tánh rất tịnh v.v.. là tu “chỉ”.
25. Bồ tát viên tu ba pháp
-Này thiện nam! Nếu có bồ tát dùng huệ Viên giác, viên hiệp các
pháp, nào tánh, tướng của các pháp đều không rời tánh Viên giác, bồ tát như
t hế, gọi là viên tu ba pháp, tùy thuận tánh viên giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Bồ tát viên tu ba pháp
Bồ tát cùng Viên giác huệ, viên hiệp tất cả các pháp. Nào Ðịnh,
Huệ và Ðịnh Huệ song tu, nào tánh, tướng của các pháp đều không rời tánh
Viên giác.
4. Tóm
lại
-Này thiện
nam! Ðây là 25 pháp tu của Bồ tát. Vậy
các bồ tát phải y theo đây mà tu hành
Nếu các bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, muốn y theo 25 pháp môn
này mà tu hành , thì phải giữ giới thanh tịnh, tâm suy nghĩ vắng lặng và
phải trải qua 21 ngày thành tâm sám hối, rồi viết 25 pháp môn này vào mỗi
miếng giấy, niêm lại kỹ, đem để trên bàn Phật và chí tâm cầu khẩn, rồi tùy
tay hành giả rút một miếng giấy, khi mở ra xem thì hành giả sẽ biết trình
độ của mình tu pháp Ðốn hay Tiệm. Song nếu hành giả một niệm nghi ngờ,
thì chẳng thành tựu.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật kết thúc lại và dạy rằng: Ðây là 25 pháp tu của Bồ
tát. Nếu có người muốn tu theo 25 pháp này, thì điều cần yếu là phải giữ
giới cho thân tâm được thanh tịnh và chí thành cầu sám hối 21 ngày. Rồi
hành giả viết tên 25 pháp tu này vào 25 miếng giáy, xếp gói riêng từ miếng,
để chung lại trên bàn. Hành giả phải chí thành cầu nguyện, rồi tùy ý
rút ra một thăm, sau khi giở ra xem, hành giả sẽ tự biết căn cơ của mình
Ðốn hay Tiệm và phải y theo đó mà tu hành. Nếu hành giả có một niệm
nghi ngờ thì chẳng thành tựu.
Tóm lại, 25 pháp tu này không ngoài Định, Huệ và Ðịnh Huệ song tu;
chẳng qua tùy theo trình độ của hành giả có sâu cạn, cao thấp không đồng,
nên có khi phải tu Ðịnh trước rồi Quán sau; có khi phải tu Quán trước rồi
Ðịnh sau; lắm lúc phải tu đồng thời v.v.. Vì tùy theo trình độ của hành
giả, mà thay đổi trước sau, xoay qua trở lại nên thành ra 25 pháp. Vậy
hành giả nên tùy theo trình độ của mình mà tu tập
5. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi đó Ðức Thế Tôn muốn tóm lại nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:
Biện Âm! ông nên biết:
Các trí huệ thanh tịnh
Của tất cả Bồ tát
Ðều do Thiền định sanh
Thiền định là “Chỉ, Quán”
Và “Chỉ, Quán song tu”
Ba pháp, phân Ðốn, Tiệm
Thành ra hai mươi lăm
Mười phương các Như Lai
Và hành giả ba đời
Ðều y pháp môn này
Mà đặng thành Bồ đề
Chỉ trừ người đốn ngộ
Và những người không tin
Mới chẳng theo pháp này
Còn tất cả bồ tát
Và chúng sanh đời sau
Phải như thế tu hành
Nhờ Ðại bi của Phật
Các ông siêng tu
Sẽ mau chứng niết bàn.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này nói: Trí huệ thanh tịnh vô ngại của các bồ tát đều do
Thiền định sanh. Thiền định là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song
tu. Bởi theo căn cơ của hành giả có đốn và Tiệm không đồng, nên ba pháp
này lại chia ra đến 25 pháp.
Chỉ trừ những bực đốn ngộ và những người không tin, còn chư Phật và các
vị Bồ tát cùng chúng sanh đời sau đều tu theo các pháp môn này mà được
thành Bồ Ðề.
Vậy hành giả nên y theo đây, siêng năng tu tập và nhờ lòng Ðại bi của
Phật gia hộ, sẽ mau chứng Niết Bàn.
▲
Trở Lên
|
BÀI THỨ
CHÍN
IX. CHƯƠNG TỊNH CHƯ NGHIỆP CHƯỚNG
1. Ngài
Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát
3. Phật trả lời: Do chúng sanh vọng chấp 4 tướng
4. Ðem vô minh cầu Ðạo, không thể thành Ðạo được
5. Phật nói bốn tướng
6. Vì không rời được bốn tướng nên tu chẳng thành Phật
7. Thương, Ghét là gốc của sanh tử luân hồi
8. Phật chỉ ngã tướng núp ẩn trong tàng thức
9. Không thấy người hủy nhục, không thấy mình thuyết pháp độ sanh, lúc bấy
giờ ngã tướng không còn.
10. Vì còn ngã tướng nên không nhập được Viên Giác
11. Phật dạy phương pháp nhập Viên giác
12. Phật nói bài kệ tóm tắt lại các nghĩa trên
IX. CHƯƠNG
TỊNH CHƯ NGHIỆP CHƯỚNG
1.Ngài
Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát hỏi Phật
Khi ấy ngài
Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát(1) ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên
hữu của Phật ba vòng, rồi lạy Phật và qùy thẳng chắp tay, bạch rằng:
-Bạch đức
Ðại bi Thế Tôn, Ngài đã vì chúng con rộng nói “nhơn địa tu hành"(2)
của các đức như Lai, toàn những việc cao siêu mầu nhiệm, không thể suy nghĩ
và luận bàn được, khiến cho đại chúng đặng lợi ích chưa từng có.
Chúng con
là hàng Bồ tát rất vui mừng, vì tất cả cảnh giới tu hành cần khổ của đức
Ðiều Ngự(3) trải qua vô số kiếp, nhiều như cát sông Hằng, mà chúng con chỉ
thấy như trong một niệm
-Bạch đức
Thế Tôn, nếu cái tâm Viên giác này tánh nó vốn thanh tịnh, vậy nhơn cái gì
mà nhiễm ô và vì sao khiến cho chúng sanh mê muội, chẳng nhập được tánh
Viên giác?
Cúi xin đức
Như Lai, rộng vì chúng con, khai ngộ Pháp tánh(4) , làm cho đại chúng hiện
tại và chúng sanh đời sau, đều được con mắt trí huệ.
Ngài Tịnh
Chư Nghiệp Chướng bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, cúi đầu kính lạy rồi
trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát hỏi Phật: “.. tánh Viên giác đã
thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô? Và vì sao làm cho chúng sanh
mê muội không nhập được tánh Viên giác...”. Ðoạn này giống như trong
kinh Lăng Nghiêm, Ông Phú Lâu Na hỏi Phật: “Tất cả chúng sanh vì sao có
vọng, tự che lấy chơn tâm mà phải chịu trầm luân?...”
_________
(1) Câu
“Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát” Cổ đức dạy: “Phật cao nhứt xích, ma thắng
nhứt trượng”, nghĩa là Phật cao 1 thước thì ma hơn 10 thước. Khi chưa
tu, vì thuận theo phiền não nghiệp chướng, nên chẳng thấy phiền não nghiệp
chướng làm chướng ngại. Ðến khi hạ thủ công phu, đi ngược dòng phiền
não, lúc bấy giờ mới thấy phiền não nghiệp chướng các bịnh hiện ra vô
số. Các phiền não nghiệp chướng này do bốn tướng Ngã, Nhơn, Chúng sanh
và Thọ giả mà sanh ra. Vì thế nên chương này, Ngài Tịnh Chư Nghiệp
Chướng bồ tát đứng lên thưa hỏi, cầu Phật chỉ dạy phương pháp dẹp trừ các
nghiệp chướng về Tâm bệnh. Ðến chương dưới Phật sẽ nói rõ về bệnh tà sư.
(2) Nhơn
địa tu hành tức là ba pháp môn Phật dạy ở chương trên (xa ma tha, Tam ma
bát đề và Thiền na). Nhơn nghe thấy Phật dạy pháp môn tu, cũng như
thấy tất cả công dụng tu hành của các đức Phật trải qua bao nhiêu kiếp lao
khổ, như trong một niệm, cho nên nói là “việc không thể nghĩ bàn”
(3) Ðiều
ngự: Ðiều phục ngự trị các phiền não ma quân. Ðây là một hiệu
trong 10 hiệu của Phật (Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, v.v..)
(4) Pháp
tánh: Tánh các pháp. Các pháp tuy ngàn sai muôn khác, nhưng đồng một
bản tánh nên gọi là “pháp tánh”, tức là biệt danh của Viên giác.
******
2. Phật
khen Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát
Khi ấy đức
Thế Tôn bảo ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát mà dạy rằng:
-Này Thiện
nam, hay lắm và quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh
đời sau, thưa hỏi Như Lai, phương tiện như vậy. Các ông nên chăm chú
nghe, ta sẽ vì các ông chỉ giáo.
Khi ấy Ngài
Tịnh Chưa Nghiệp Chướng bồ tát cùng đại chúng đều hoan hỷ và yên lặng vâng
nghe lời Phật chỉ dạy
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật khen ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát, vì đại chúng hiện tại và
chúng sanh đời sau, thưa hỏi những lời rất hữu ích.
***
3. Phật
trả lời: Do chúng sanh vọng chấp bốn tướng
-Này Thiện
nam! Tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, do vọng tưởng điên đảo,
chắp bốn tướng: Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ mạng, cho là thật thể của ta;
rồi sanh ra hai cảnh: thương và ghét. Thế là ở nơi thân thể này đả hư
vọng, lại chấp thêm cái hư vọng nữa.
Bởi hai lớp
vọng nương nhau, sanh ra các vọng nghiệp. Vì có vọng nghiệp nên vọng
thấy có sanh tử luân hồi. Những người nhàm chán sanh tử luân hồi thì lại
vọng thấy có Niết bàn.
Bởi thế nên
không thể nhập được Viên giác thanh tịnh; chớ không phải tánh Viên giác này
chống cản không cho chúng sanh nhập. Và những người nhập được, cũng
không phải tại tánh Viên giác chấp thuận hay cho họ nhập vậy. Thế nên
kẻ khởi niệm hay người dứt niệm cũng đều là mê muội. Tại sao thế? -
Bởi vì vô minh đã khởi sẵn (bổn khởi vô minh) và làm chủ tể từ vô thỉ vậy.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn thứ
nhứt, Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát hỏi Phậ: “... Cái tâm viên giác
này vốn đã thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô? Và vì sao khiến cho
chúng ta sanh mê muội chẳng nhập được viên giác?..”
Ðến đoạn
này Phật trà lời, đại ý nói: Bởi tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ,
do vọng tưởng điên đảo, chấp bốn tướng (Ngã, Nhơn, Chúng sanh, Thọ mạng) là
thật thể của Ta, là lớp hư vọng thứ nhứt. Rồi khi gặp cảnh thuận với
ta thời thương, cảnh nghịch với Ta lại ghét, là lớp hư vọng thứ hai. Vì
thế mà nhiễm ô. Ðây là Phật trả lời về câu hỏi thứ nhứt: Nhơn gì mà
nhiễm ô?
Nhơn cố
chấp thật có Ta, cho nên mới sanh ra thương ghét, vì thương ghét nên trở
lại chấp thật có Ta. Bởi hai lớp vọng này nương nhau, nên sanh ra các
vọng nghiệp. Vì thế mà chúng phàm phu vọng thấy có sanh tử luân hồi
trong 6 đạo. Hàng Tiểu thừa nhằm chán sanh tử luân hồi thì lại vọng thấy có
Niết bàn; rồi trầm không thú tịch tham luyến nơi cảnh Niết bàn. Bởi
thế nên không nhập được tánh viên giác thanh tịnh, chớ chẳng phải tánh Viên
giác không cho họ nhập vậy. Ðây là Phật trả lời câu hỏi thứ
hai: Vì sao khhiến cho chúng sanh mê muội, chẳng nhập được Viên
Giác?
Phật lại
dạy tiếp: Những người nhập được, cũng không phải do tánh Viên giác chấp
thuận cho họ nhập. Bởi thế nên chúng phàm phu khởi niệm, hay hàng Nhị
thừa dứt niệm, đều là vô minh mê muội cả, chớ không dính líu gì đến tánh
Viên giác vậy.
******
4. Ðem
vô minh (ngã, tướng v.v...) mà cầu đạo, thì không thể thành đạo được
-Này Thiện
nam! Tất cả chúng sanh, sống không có con mắt trí huệ, nên không tự thấy cả
thân tâm này (ngã tướng) đều là vô minh. Vì ngã tướng (thân tâm) do vô
minh sanh, nên chúng sanh không đủ can đảm tự tiêu diệt ngã tướng, cũng như
người không thể tự sát lấy mình được.
Bởi chấp
thân này là Ta, nên cảnh nào thuận với ta thì sanh ra thương yêu; còn cảnh
nào nghịch với Ta thì lại sanh ra oán ghét. Do tâm thương ghét
này, trở lại tiếp tục nuôi dưỡng vô minh. Vì thế nên chúng sanh cầu
Ðạo, đều không thành được Ðạo
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này Phật dạy rằng: Tất cả thân tâm của chúng sanh đều do vô minh sanh;
song vì chúng sanh (ngã tướng) đã từ vô minh sanh, nên không đủ can đảm
tiêu diệt vô minh (ngã tướng) của mình. Cũng như người không thể tự
sát mình được.
Vô minh đã
sanh ra ngã tướng, rồi từ ngá tướng sanh ra thương ghét, rồi trở lại làm
tăng thế lực cho nước. Bởi vô minh huân tập và tu dưỡng lẫn nhau, tiếp
nối không ngừng, nên chúng sanh dầu có cần khổ tu đạo mà bốn tướng (Ngã,
Nhơn, v.v..) không rời, thì quyết định chẳng thành Ðạo.
Giống như
trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: “... Nếu dùng gốc rễ của vọng tâm làm tu
nhơn, thì không thể nào thành được Ðạo). Ðem tâm đời mà làm Ðạo, thì
Ðạo cũng trở thành đời!
Trong kinh
Viên giác lược sớ chép: “Dùng tâm mê muội (Vô minh) mà cầu đạo, dầu cho
siêng năng khổ hạnh tu đủ các pháp môn, cũng chỉ giúp thêm lực lượng cho vô
minh mà thôi, chớ không thành được quả vị Phật.
Phải
biết: Gốc từ vô minh sanh ra thương ghét, rồi do thương ghét trở lại
huân tập thành vô minh. Từ chủng tử sanh hiện hành, rồi hiện hành huân
làm chủng tử nối nhau không dứt. Chúng sanh đem cái vô minh này mà
cầu Ðạo thì trọn đời không thể thành tựu.
Kinh Bảo
Tích chép: Ðối với thân này, sanh yêu quý, thế là không rời tướng Ngã,
Nhơn; dùng cái tướng Ngã, Nhơn này mà tu hành thì trở lại đọa ác thú.
****
5. Phật
nói bốn tướng:
A. NGÃ
TƯỚNG
-Này Thiện
nam! Thế nào là “Ngã tướng”? - Tất cả chúng sanh tự tâm chứng nhận
biết có Ta (ngã tướng) vậy. Thí như có người thân thể điều hòa không
có chút gì trái ý, tợ hồ như quên mình (lúc ấy không thấy ngã tướng
hiện). Ðến khi điều dưỡng bị thất thường, thân thể mất thăng bằng,
hoặc gặp phải những cảnh trái nghịch, như gai đâm hay lửa đốt v.v... lúc
bấy giờ mới thấy cái Ta (ngã tướng) hiện ra rất rõ rệt. Vì thế mà chứng
biết có cái Ta.
-Này Thiện
nam! Sâu thêm một từng nữa, cái Ngã tướng có phần vi tế hơn trước, là
người tu hành, trong lúc thấy minh có chứng quả, có đắc đạo. Cho đến
khi chứng quả Như Lai, hay đặng Niết bàn thanh tịnh của Phật, mà nếu còn
cái tâm biết mình có chứng và có đặng, như thế cũng đều còn “Ngã tướng”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật chỉ rõ cái Ngã tướng (ta) có thô và tế.
1. Trong
lúc bình thường thì cái Ta hiện ra không rõ rệt, đến khi nghịch cảnh, bị
người đánh đập hoặc hủy nhục v.v.. lúc bấy giờ cái Ngã tướng hiện ra mới rõ
ràng. Ðâylà cái Ngã tướng thô.
2. Người
tu hành, một mình ở trong núi sâu rừng thẳm, không gặp các cảnh thuận
nghịch, tâm không phân biệt mình với người, lúc bấy giờ tưởng mình đã chứng
được “vô ngã” rồi. Ðến khi gặp cảnh buồn vui thử thách, tâm mừng giận
nổi lên, lúc bấy giờ Ngã tướng hiện ra y nguyên. Cho đến lúc tự thấy
mình đắc Ðạo hay chứng Niết bàn tịch tịnh của Như Lai cũng đều còn NGã
tướng, song có phần vi tế hơn trước. Bởi vì còn biết có Niết bàn hay
quả Phật sở chứng (được chứng), tất nhiên phải có cái Ta “năng
chứng”. Nếu năng chứng và sở chứng chưa hết (bỉ, thử chưa trừ) tức là
còn Ngã tướng.
B. NHƠN
TƯỚNG
-Này thiện
nam! Thế nào là Nhơn tướng? -Tất cả chúng sanh, tự tâm hiểu ngộ
Ta đây là người vậy (nhơn tướng), nghĩa là hiểu ngộ ta là người và các
ngươi cũng là người (nhơn tướng). Nói rộng ra, hiểu ngộ ngoài Ta (ngã)
thì tất cả đều là người vậy.
-Này thiện
nam! Ði sâu vào một từng nữa, cái “nhơn tướng” có phần vi tế hơn, là
cái tâm này, cho đến hiểu ngộ rắng: “còn biết mình viên ngộ Niết bàn”, cũng
đều còn Ngã tướng; nghĩa là ở nơi tâm, nếu còn một chút ngộ rắng : “Chứng
lý đầy đủ”, thì đều gọi là “Nhơn tướng”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật chỉ rõ cái “nhơn tướng” có thô và tế.
1.
Chúng sanh tự công nhận mình là người (nhơn) và các người cũng là người
(nhơn). Nói rộng ra, ngoài mình (Ta) thì tất cả kẻ khác đều là người
(nhơn). Ðây là cái nhơn tướng thô thiển
2. Ði
sâu vào một từng nữa, cái Nhơn tướng có phần vi tế hơn, là cái “tâm hiểu
biết” này, cho đến nếu còn hiểu biết: “mình có viên ngộ Niết bàn”, cũng còn
Ngã tướng. Nghĩa là: hễ còn có một chút hiểu biết, thế là còn “nhơn
tướng”. Cái nhơn tướng này rất là vi tế.
Tóm lại,
nếu còn có một chút hiểu ngộ rằng: “Mình viên ngộ Niết bàn”, thế là cái
“hiểu ngộ” và có cái “mình viên ngộ” khác nhau. Vậy thời ngoài mình
(mình viên ngộ) còn có Nhơn tướng (cái hiểu ngộ) vậy.
Nói lại cho
dễ hiểu: còn có Ta viên ngộ Niết bàn, tức là Ngã tướng, cái “biết ta viên
ngộ” đó là nhơn tướng.
C. CHÚNG
SANH TƯỚNG
-Này thiện
nam! Thế nào là chúng sanh tướng? - Tất cả chúng sanh ở nơi tự tâm
không còn chấp mình là Ngã và Nhơn mà lại chấp là chúng sanh. Tỷ như
có người nói như thế này: “Tôi đây là chúng sanh”. Bởi thế nên
biết: Người kia nói “Tôi là chúng sanh” thì biết không phải Ngã và
Nhơn.
-Này thiện
nam! Những chúng sanh rõ biết hai món tướng trước (sở chứng, sở ngộ)
là thuộc về Ngã và Nhơn, nay không còn chấp Ngã, Nhơn nữa; nhưng còn cái
“tâm rõ biết”, đó là chúng sanh tướng.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật nói chúng sanh tướng có hai phần thô và tế.
1.
Không còn chấp ta đây là Ngã hay Nhơn mà lại chấp là chúng sanh. Như
thế là chấp về phần thô.
2. Rõ
biết hai tướng Ngã và Nhơn là phi, nên không còn chấp; thế là đã cao hơn
trước một từng, nhưng còn cái “rõ biết hai tướng Ngã, Nhơn là phi”. Ðó
cũng là cái vi tế Ngã tướng còn ẩn phục bên trong, gọi là chúng sanh tướng.
D. THỌ
MẠNG TƯỚNG
-Này thiện
nam! Thế nào là thọ mạng tướng? – Các chúng sanh tâm chiếu soi (phân
biệt) đã thanh tịnh. Nhưng còn cái trí giác ngộ tưởng chúng sanh trước
(giác sở liễu giả). Bởi còn có cái “trí giác ngộ”, tương tục tu tập
các nghiệp vô lậu, chưa có thể tự trừ đưọc; cũng như mạng căn tương tục,
không tự đoạn được, nên gọi là “thọ mạng tướng”.
-Này thiện
nam! Nếu còn tâm soi thấy (biết) tất cả cái giác (biết) trước (3 tướng
trên) đó thì cũng còn ở trong vòng trần cấu (tâm chưa trong sạch). Bởi
còn năng giác và sở giác nên chưa rời trần cấu vậy.
Cũng như
nước nóng làm tiêu băng, thì toàn băng là nước, lúc bấy giờ không còn nước
nóng năng tiêu và băng bị tiêu nữa. Nếu còn chút nước nóng và
băng, thế là nước chưa thuần nhứt. Cũng thế, nếu còn cái Ta để giác
ngộ cái Ta trước, thì chưa rời được bốn tướng.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này nói: Người tu hành khi phá trừ được Ngã, Nhơn, chúng sanh ba tướng
trên rồi, tâm đã được thanh tịnh, nhưng còn cái trí tiếp tục tu vô lậu
nghiệp, để phá trừ tướng trên. Vì cái trí này còn tiếp tục trong một
thời gian chưa có thể tự trừ được. Cũng như mạng sống của người, sống
tiếp tục trong một thời gian, không thể tự đoạn được, nên gọi là “thọ mạng
tướng”.
Phật dạy
thêm, đại ý: Nếu còn tâm phân biệt để phá trừ các tướng ( Ngã, Nhơn, Chúng
sanh, thọ mạng) thế là còn vọng vì năng, sợ, bỉ, thử đối đãi nhau,
nên tâm chưa trong sạch. Bởi còn vọng là còn nhiễm ô, vì thế nên gọi
là trần cấu. Nghĩa là: nếu còn một chút biết rằng: “Ta trừ Ngã”, thế
là còn mắc trong bốn tướng, chưa thoát ly được vọng – Cũng như nước nóng
làm tiêu băng, khi băng “tiêu rồi thì “nóng” cũng không chỉ còn nước.
Ngài Tôn
Mật giải: Nước là dụ cho “chơn tâm” băng là dụ cho “bốn tướng”. Nước
nóng là dụ cho “trí huệ”. Nước vì lạnh mà đóng thành “băng”; cũng như
Tâm vì mê nên thành “bốn tướng’. Dùng nước nóng làm tiêu băng, cũng
như dùng trí huệ làm tiêu bốn tướng. Khi băng tiêu rồi thì nóng (nước
nóng) cũng không chỉ còn một tánh nước mà thôi. Cũng như ngã tướng
hết, thì trí phá Ngã cũng không chỉ còn một thể tánh chơn tâm.
Tóm lại,
tướng “thọ mạng” cũng là tướng Ngã rất vi tế đó thôi. Chúng sanh trước
phân biệt chấp Ta, tức là Ngã tưóng. Khi phá được Ngã tướng, nhưng còn
cái “trí biết mình phá Ngã” là nhơn tướng. Khi phá được Nhơn tướng,
nhưng còn cái “trí biết mình đã phá nhơn tướng” gọi là chúng sanh
tướng. Khi phá được chúng sanh tướng, nhưng vẫn còn cái “trí biết mình
đã phá chúng sanh tướng”. Cái trí đó vẫn tiếp tục tu các nghiệp vô
lậu, chưa có thể tự đoạn được, cũng như mạng căn tương tục sống trong một
thời gian và không thể tự đoạn được, nên gọi là “thọ mạng tướng”.
Vậy thì bốn
tướng trên, cũng là một ngã tướng, chẳng qua từ thô vào tế, từ thiển đến
thâm mà thôi. Theo trong văn Kinh chữ Hán, dùng bốn chữ riêng biệt,
chỉ rõ bốn tướng có thô và tế khác nhau.
1.
Chứng là ngã tướng
2.
Ngộ là nhơn tướng
3.
Liễu là chúng sanh tướng
4.
Giác là thọ mạng tướng
******
6. Vì
không rời được bốn tướng, nên tu chẳng thành Phật
-Này thiện
nam! Các chúng sanh đời sau, bởi không rời được bốn tướng, nên tuy
trải qua nhiều kiếp, siêng năng tu hành khổ hạnh, nhưng chỉ thành hữu vi mà
thôi, chớ không thể chứng được Thánh quả.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh
Lăng nghiêm Phật đã cặn kẽ căn dặn: “Nếu các ông nhận lầm căn bản của sanh
tử là vọng tâm làm nhơn địa tu hành, thì không bao giờ thành quả vị
Phật. Cũng như người nấu cát làm cơm, dầu trải qua bao nhiêu kiếp cũng
chẳng thành cơm được, vì nó gốc là cát”
Giống với
đoạn kinh này, Phật dạy đại ý: Người mang tâm nhơn, ngã v.v... thuộc về hữu
vi hữu lậu của chúng sanh, mà muốn cầu quả vô vi vô lậu của Phật, dầu
cho cực khổ tu hành, trải qua nhiều kiếp cũng không thể được, vì gốc nó là
Ngã tướng, là chúng sanh và hữu lậu vậy.
******
-Tại sao
thế? Bởi nhân các ngã tướng: có chứng có ngộ, cho là thành tực quá
Niết bàn. Chẳng khác nào người nhận giặc làm con, nó sẽ phá tan gia
tài quý báu vậy.
LƯỢC GIẢI
Ngài Như
Sơn giải rằng: Tại sao siêng năng tu hành trải lâu nhiều kiếp, mà không
chứng được thánh quả? - Bởi vì lầm nhận ngã tướng làm Niết bàn vậy.
Cũng như lầm nhận giặc làm con, đã không được nhờ, trái lại còn bị nó phá
hại chẳng ít.
Trên văn
kinh, chữ “các ngã tướng” tức chỉ cho bốn tướng: Ngã, Nhơn, Chúng sanh và
Thọ mạng.
Trên văn
kinh, chữ “có chứng có ngộ”; nghĩa là biết mình có chứng quả Phật, có ngộ
Ðạo, thế là chưa rời NGã tướng. Bởi hành giả đem “ngã tướng” này, cho
là đặng thánh quả, nên nói “nhận giặc làm con vậy”.
******
7.
Thương (tham) ghét (sân) là gốc của sanh tử luân hồi
-Này thiện
nam! Nếu hành giả còn ưa (thương) Niết bàn (pháp ái) tức là còn Ngã
tướng (ta ưa); chẳng qua cái Ngã tướng ấy bị ẩn phục, rồi lầm cho đó là
tướng Niết Bàn.
Còn ghét
sanh tử, tức là còn Ngã tướng (ta ghét). Chúng sanh riêng ghét sanh
tử, ưa Niết bàn, chớ đâu biết rằng: cái “ưa” đó chính là gốc sanh tử, còn
“ghét” là gốc triền phược (không giải thoát).
-Này thiện
nam! Làm sao biết “ưa” và “ghét” là gốc của sanh tử triền phược? Bởi
các chúng sanh tu đạo Bồ đề, nếu còn đôi chút biết mình chứng được Ðạo quả
thanh tịnh, thế là chưa diệt trừ được tận gốc Ngã tướng, nên còn sanh tử
triền phược.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này nói: “còn” thương ghét là còn ngã tướng; mà ngã tướng là gốc rễ
của sanh tử luân hồi.
Chúng sanh
đem tâm “thương ghét” này mà cầu đạo Bồ đề, thì không bao giờ được giải
thoát, vì nó là gốc của sanh tử luân hồi vậy.
Mặc dầu
ghét sanh tử là việc phải, ưa cảnh Niết bàn tịch tịnh là một điều hay;
nhưng cũng còn ở trong vòng thương ghét, nên chẳng rời Ngã tướng.
Phải không
“thương ghét”, thì ngã tướng mới không; ngã tướng không, mới nhập được Viên
giác. Vì hiểu nghĩa này, nên cổ nhơn có làm bài kệ rằng
HÁN VĂN:
Thập
phương đồng tụ hội
Cá cá
học vô vi
Thử
thị tuyển Phật trường
Tâm
không cập đệ quy
DỊCH NGHĨA
Mười
phương đồng tu hội
Người
người học vô vi
Ðây
là trường thi Phật
“Tâm
không” mới được đậu
Bài kệ này
quan trọng nhứt là hai chữ “Tâm không”. Người còn “ưa ghét” tức là còn
tham sân; thâm sân còn thì sanh tử luân hồi còn. Bởi thế nên trường
thi làm Phật này, nếu ai Tâm không còn tham sân tật đố, Tâm không còn nhơn
ngã bỉ thử, Tâm không còn mừng giận thương ghét v.v... thì được “đậu”
********
8. Phật
chỉ “Ngã tướng” ẩn núp trong tạng thức
-Này Thiện
nam! Trong khi có người đến khen ngợi kính phục, hành giả lại sanh vui
mừng, muốn tế độ người đó. Trái lại, nếu bị người chê bai hủy báng,
thì hành giả lại sân hận. Do đó mà biết cái ngã tướng vẫn còn kiên cố
núp ẩn trong tạng thức; nó thường lai vãng trong các căn của hành giả,
không gián đoạn vậy. Người tu hành bởi không đoạn trừ được “ngã
tướng”, cho nên không thể nhập được Viên giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Người đời
khi gặp cảnh thuận hay nghịch, cái Ngả tướng thô trọng nổi lên rất dễ
biết. Ðến như người tu hành cổi lột được Ngã tướng thô trọng bên
ngoài, nhưng còn cái Ngã tướng vi tế tiềm tàng trong tạng thức. Nó
thường xuất đầu lộ diện, lai vãng ở nơi các căn: mắt, tai, mũi, lưỡi.
Bằng chứng:
trong lúc được người khen kính thì ta sanh tâm hoan hỷ, muốn độ người
ấy. Trái lại, khi bị người hủy báng chê bai, thì ta lại không
vui. Ðó là cái Ngã tướng hiển lộ, có phần tế nhị hơn trước. Bởi
không trừ được tướng ngã, nên không nhập được Viên giác.
Than ôi!
Núi không cao, trời không cao
Ngã tướng
mới cao
Sông chẳng
sâu, biển chẳng sâu
Ngã tướng
mới sâu
**********
9. Không
thấy người hủy nhục, không thấy mình thuyết pháp độ sanh, lúc bấy giờ ngã
tướng mới không còn.
-Này thiện
nam! Nếu hành giả muốn biết mình được vô ngã chưa, cứ xem trong lúc bị
người hủy nhục, mà không thấy có ngưòi hủy nhục như thế là được Vô ngã.
Trái lại,
trong lúc thuyết pháp độ người mà còn thấy có Ta thuyết pháp, thế là Ngã
tướng chưa đoạn. Còn nhơn tướng, chúng sanh tướng và thọ mạng tướng
cũng thế.
LƯỢC GIẢI
Ðược người
khen không mừng, bị người chê chẳng buồn, cũng chưa chắc đã hết Ngã
tướng. Trong khi được khen bị chê, mà không thấy có người khen chê,
như thế mới là vô ngã. Trái lại, nếu thấy có người khen chê, cố nhiên
phải có Ta được khen, bị chê, nên Ngã tướng hãy còn rõ ràng.
Một thí dụ
thứ hai: trong lúc thuyết pháp độ người, không thấy có Ta thuyết pháp, có
người nghe pháp, không thấy có Ta tế độ, có người được độ; như thế mới được
vô ngã. Trái lại, nếu còn thấy có Ta thuyết pháp, có Ta tế độ, thế là
Ngã tướng chưa đoạn.
Trong kinh
Kim Cang, Phật nói:
“Bồ tát độ
vô số chúng sanh mà không thấy chúng sanh có độ, nếu còn thấy có Ta độ sanh
tức không phải Bồ tát”; vì còn ngã tướng, nên không phải bồ tát vậy.
Kinh Kim
Cang lại nói:
“Bồ tát
thuyết pháp, không thấy có mình thuyết, nếu còn thấy có Ta thuyết pháp, tức
không phải Bồ tát”; vì còn ngã tướng, nên không phải bồ tát vậy.
******
10. Vì
còn “ngã tướng” nên không nhập được viên giác
-Này Thiện
nam! Ngã tướng là cái trọng bịnh của hành giả. Song, chúng sanh
đời sau, lại nhận lầm cái trọng bịnh này, cho là mình chứng được pháp Niết
bàn, thật đáng thương xót! Bởi thế nên chúng càng tinh tấn tu hành
chừng nào thì lại càng thêm cái bịnh Ngã tướng chừng nấy; vì thê nên không
nhập được Viên giác thanh tịnh
-Này thiện
nam! Chúng sanh đời sau chấp theo sự kiến giải và hạnh của Như Lai,
làm chỗ hiểu biết và hạnh của mình, song vì không biết bốn tướng còn ẩn núp
bên trong, nên chẳng thành tựu được Thánh quả
Hoặc có
chúng sanh chưa đặng đạo mà nói mình đã đặng Ðạo, chưa chứng quả mà nói
mình đã chứng quả; thấy người tinh tấn tu hành lại sanh tật đố. Bởi
chúng sanh này chưa đoạn trừ được ngã ái nên không nhập được Viên giác
thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này nói vì có ba nguyên nhân, nên hành giả không nhập được viên giác thanh
tịnh
1.
Bởi hành giả không biết bốn tướng rất tế nhị, lầm cho mình chứng được đạo
quả, nên càng tu chừng nào lại càng tăng trưởng bịnh Ngã tướng chừng
nấy. Vì vậy mà chẳng nhập được viên giác.
2.
Hành giả chỉ bắt chước theo chỗ kiến giải và hạnh của Như Lai làm của mình,
không biết bốn tướng vẫn còn tiềm tàng trong tạng thức của hành giả, nên
không được nhập Viên giác. Thí như hành giả thấy trong kinh Phật dạy
bố thí v.v... rồi thực hành theo. Nhưng không biết trong khi ấy, lại
bị bốn tướng thường theo dõi. Nhưng trong khi bố thí, thấy có người
thọ thí (nhơn tướng) và ta bố thí (ngã tướng). Bố thí để cầu cho ta
được giàu sang, Ta được mạnh giỏi v.v.. vì cái Ngã tướng còn nguyên hiện
như thế, nên không nhập được Viên giác
3.
Cũng vì Ngã tướng chưa đoạn nên hành giả trong lúc tu hành thấy kết quả
được đôi phần, lúc bấy giờ tánh kiêu căng nổi lên, chưa phải chứng ngộ đắc
đạo, mà tự cho mình đã chứng ngộ hoặc đắc đạo. Hay thấy người hơn
mình, lại sanh ra tật đố v.v... Vì thế mà không thể nhập được Viên Giác.
*****
11. Phật
dạy phương pháp nhập Viên giác
-Này Thiện
nam! Chúng sanh đời sau trông mong thành Ðạo, mà không cầu cho ngộ đạo; chỉ
ưa học nhiều nói suông, để tăng trưởng ngã tướng.
Hành giả
phải phát tâm đại dõng mãnh, hàng phục các phiền não. Những pháp lành
chưa chứng được phải tinh tấn tu cho chứng; các pháp ác chưa đoạn phải đoạn
cho đưọc; khi xúc cảnh không sanh tham, sân, si, mạn, ái và tật đố v.v..
nào nhơn, ngã, bỉ, thử, ân ái v.v.. đều vắng lặng. Như Lai ấn chứng cho
người này, lần lượt sẽ thành tựu được Viên giác.
Trên đường
tu hành, hành giả phải cầu thiện hữu tri thức chỉ dẫn mới khỏi bị đọa tà
kiến. Song, nếu hành giả đối với Thiện tri thức, lại phân biệt
sang hèn, sanh tâm thương ghét, thì cũng không thể nhập được biển Viên giác
thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này, Phật chỉ đường lối tu hành để nhập Viên giác, có 3 đoạn
Ðoạn thứ
nhất, đại ý Phật dạy: Muốn được đạo thì phải tu hành mới ngộ được
đạo. Nếu học nhiều nói suông mà không tu, thì chỉ tăng trưởng Ngã
tướng.
Ðoạn này
giống như trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan tự trách: “.. Bạch Thế Tôn, vì
con ỷ lai con là em của Phật, có lẽ Phật thương yêu sẽ ban cho con đạo quả,
không cần phải tu hành cực khổ, chỉ lo học nhiều nói suông nên không lợi
ích cho mình...”
Ðoạn thứ
hai, đại ý Phật dạy: Phương pháp tu hành để nhập Viên giác, là phải phát
tâm đại dõng mãnh, đoạn trừ các phiền não, tức là bốn tướng nói
trên. Siêng năng đoạn các ác pháp, tu chứng các thiện pháp. Tất
cả thời, tâm đều vắng lặng, khi đối cảnh không sanh các phiền não như tham,
sân, si v.v.. Phật ấn chứng cho người ấy sẽ đặng nhập Viên giác.
Ðoạn này
giống như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy bốn chữ “Bất tùy phân biệt”,
nghĩa là: khi đối cảnh không khởi phân biệt thì vọng niệm chẳng sanh, vọng
niệm không sanh chơn tâm hiển lộ.
Ðoạn thứ
ba, đại ý Phật dạy: Trên đường tu hành, hành giả phải cầu Minh sư chỉ giáo,
mới tránh khỏi đọa tà kiến. Song khi đối với Minh sư không được phân
biệt giàu nghèo, sang hèn v.v.. (y pháp bất y nhơn) phải sanh tâm kính
trọng. Nếu trại lại thì không thể nhập được Viên giác.
***
12. Phật
nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức
Thế Tôn, muốn tóm lại nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Tịnh
Nghiệp! Ông nên biết:
Tất
cả các chúng sanh
Luân
hồi từ vô thỉ
Ðều
do chấp ngã vậy.
Nếu
không trừ bốn tướng
Chẳng
chứng quả Bồ đề.
Nếu
tâm còn thương ghét
Hoặc
tật đố si mê
Ấy là kẻ mê muội,
Không được nhập Viên giác.
Người muốn được giác ngộ,
Trước phải trừ tham, sân,
Tâm hết chấp ngã, pháp,
Mới được nhập Viên giác
Thân này còn chẳng có
Thương ghét do đâu sanh
Hành giả phải cầu Thầy
Mới khỏi đọa tà kiến,
Cầu thầy, mà phân biệt
Thời không nhập Viên giác
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này: Chúng sanh bị sanh tử luân hồi từ hồi nào đến giờ,
đều do chấp bốn tướng. Nếu bốn tưóng không trừ thì không thể chứng bồ
đề. Vì các phiền não như tham, sân, si v.v.. nó làm mê muội, nên chúng
sanh chẳng nhập được Viên giác. Hành giả muốn nhập Viên giác trước phải
đoạn tham, sân v.v.. Bao giờ tâm không còn ngã chấp và pháp chấp, mới chứng
đặng Viên giác.
Song trên đường tu hành, hành giả phải cầu Minh sư chỉ giáo, mới khỏi
lạc tà kiến. Khi cầu thỉnh Minh Sư, nếu hành giả còn phân biệt sang
hèn, sanh tâm thương ghét, thời cũng không nhập được Viên giác.
▲
Trở Lên
|
BÀI THỨ 10
& 11
X.
CHƯƠNG PHỔ GIÁC
1. Ngài Phổ Giác bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Phổ Giác bồ tát
3. Phật dạy ngài Phổ Giác bồ tát
4. Phật nói bốn định
5. Phật trả lời câu hỏi thứ ba: phải làm những hạnh gì?
6. Phật trả lời câu hỏi thứ tư: Phải trừ bỏ bịnh gì?
7. Phật trả lời câu hỏi thứ năm: Phải phát tâm như thế nào?
8.Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
XI.
CHƯƠNG VIÊN GIÁC
1. Ngài Viên Giác hỏi Phật
2. Phật khen ngài Viên Giác
3. Phật dạy pháp an cư
4. Phật dạy 21 ngày đầu ở trong tịnh thất
5. Phật dạy an cư 3 tháng theo Bồ tát thừa
6. Khi thấy thắng cảnh, hành giả chớ nên chấp trước
7. Tu chỉ (xa ma tha)
8. Tu quán (Tam ma Bát Ðề)
9. Chỉ Quán song tu (thiền na)
10.Tóm tắt
11.Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
X. CHƯƠNG PHỔ GIÁC
1. Ngài Phổ Giác bồ tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài Phổ Giác bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên
hữu của Phật ba vòng, kính cẩn lạy Phật và quỳ thẳng chắp tay bạch rằng:
-Bạch đức đại bi Thế Tôn, Ngài đã vì chúng sanh nói các bệnh (bốn
tướng) của người tu thiền, khiến cho Ðại chúng gội sạch các mê lầm nơi tâm
và được an ổn. Ðây là một việc lợi ích lớn chưa từng có.
-Bạch Thế Tôn, chúng sanh đời sau các Phật lần xa, các vị Thánh hiền
lại ẩn, tà sư ngoại đạo rất thạnh hành; vậy trên đường tu hành:
1. Phải cầu bực nào để dạy bảo?
2. Phải y phương pháp nào tu hành?
3. Phải làm theo hạnh nào?
4. Phải trừ những bịnh gì?
5. Phải phát tâm như thế nào?
Xin Phật từ bi chỉ dạy, khiến cho những chúng sanh còn mê muội, khỏi bị
đọa tà kiến.
Ngài Phổ Giác bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, cúi đầu kính lạy, rồi
trở về chỗ cũ.
LƯỢC GIẢI
Chữ “Phổ Giác” là giác ngộ cùng khắp. Trên đường tu hành, hành giả
phải gặp nhiều chướng ngại. Những chướng ngại ấy đều do chấp bốn tướng
mà sanh ra. Bởi thế nên chương thứ 9, Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng
bồ tát đứng thưa hỏi, để Phật chỉ bày bốn tướng cho hành giả biết rõ đặng
trừ. Khi bốn tướng trừ hết rồi thời các nghiệp chướng được thanh tịnh.
Song trên đường tu hành, hành giả còn bị mây Vô minh rất vi tế, tức là
bốn bịnh sau này che mặt trăng Viên giác của hành giả, làm cho trăng Viên
Giác chiếu soi không được phổ biến.
Vì thế nên đến chương thứ 10 này, NGài Phổ Giác bồ tát đứng lên thưa
hỏi, cầu Phật chỉ dạy thêm, để cho hành giả hiểu biết, đặng dẹp trừ hết mây
vô minh, thời trăng Viên giác kia mới được chiếu soi phổ biến.
***
Tóm lại, đoạn này có 3 phần:
1. Trước Ngài Phổ Giác tán thán Phật đã chỉ rõ những chứng bịnh
của Thiền giả là bốn tướng vừa nói trên, để chúng sanh biết bịnh đặng trừ,
sẽ được an ổn.
2. Ngài Phổ Giác bồ tát thương xót chúng sanh đời sau cách Phật
xa pháp, các vị Hiền Thánh thì ở ẩn, ngoại đạo tà sư lại thạnh hành làm cho
người tu hành dễ lạc vào tà kiến
3. Ngài Phổ Giác bồ tát, cầu Phật chỉ dạy 5 điều như sau:
a. Y theo phương pháp nào để tu
b. Phải làm những hạnh gì?
c. Phải trừ những bịnh gì?
d. Làm sao để phát tâm?
***
2. Phật khen ngài Phổ Giác bồ tát
Khi ấy đức Thế Tôn khen Ngài Phổ Giác bồ tát và dạy rằng
-Này Thiện
nam, hay lắm và quý lắm! Ông vì chúng sanh đời sau thưa hỏi Như Lai
đường lối tu hành như thế. Ðó là ông bố thí cho chúng sanh đời sau con
mắt đạo không sợ (đạo nhãn vô úy), khiến cho chúng sanh đặng thành Thánh
Ðạo. Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ giáo.
Khi ấy Ngài
Phổ Giác bồ tát và đại chúng đều hoan hỷ và lẳng lặng vâng nghe lời Phật
chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật khen Ngài Phổ Giác vì chúng sanh, cầu Phật chỉ dạy đường lối tu hành
để cho chúng sanh đi thẳng đường đến nơi thánh quả, không còn lo sợ đọa vào
tà kiến.
“Mắt đạo
không sơ” .- Ðối với đạo hiểu biết được rõ ràng như con mắt thấy đường đi
nên gọi là “con mắt đạo” (đạo nhãn). Trên đường tu hành không còn lo
sợ đọa vào tà kiến, nên nói “không sợ” (vô úy)
***
3. Phật
dạy ngài Phổ Giác bồ tát
-Này Thiện
nam! Chúng sanh đời sau muốn phát tâm tu đại thừa thì phải cầu Thiện
tri thức, tức là những người hiểu biết chơn chánh (chánh tri
kiến). Những vị ấy tâm chẳng trụ ở nơi tướng phàm phu và cũng không
dính mắc nơi cảnh của Thinh văn, Duyên giác; tuy hiện ở nơi cảnh trần lao
mà tâm vẫn thường thanh tịnh. Có khi các vị ấy thị hiện đồng ăn đồng ở
với người tội lỗi (đồng sự nhiếp), mà thường khen ngợi các hạnh thanh tịnh
(phạm hạnh), không để cho chúng sanh làm việc tội lỗi.
Hành giả
phải cầu những người như vậy, dạy bảo tu hành, để thành tựu quả Phật.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật trả lời câu hỏi thứ nhứt của Ngài Phổ Giác bồ tát hỏi: “Phải cầu những
bực nào dạy bảo?”. - Ðại ý Phật trả lời: Người tu hành muốn được thành quả
Phật, phải đủ hai điều kiện:
1.
Bên trong, hành giả phải phát tâm Ðại thừa làm chánh nhơn
2.
Bên ngoài, phải nhờ các thiện hữu tri thức, huớng dẫn đường lối tu hành làm
chánh duyên. Nếu có nội nhơn mà thiếu ngoại duyên, hay có ngoại duyên
mà thiếu nội nhơn đều không thành tựu.
Song, cầu
thiện hữu tri thức, phải là người “chánh tri kiến”. – Làm sao biết người
“chánh tri kiến?”. – Hành giả phải dùng hai phương diện thuận cảnh và
nghịch cảnh sau đây quan sát, sẽ phân biệt được thế nào là “chánh tri kiến”
1.
Thuận cảnh. – Vì thiện tri thức này, tâm không trụ nơi phước báo của phàm
phu ở cõi người hay cõi trời, vào cũng không trụ nơi phước báo của phàm phu
ở cõi người hay cõi Trời, vào cũng không trụ nơi cảnh thanh nhàn yểm thế tu
ích kỷ tiêu cực của Tiểu thừa là Thanh văn và Duyên giác.
2.
Nghịch cảnh. – Vì thiện hữu Trí thức này, hiện thân ở trong cảnh nhiễm ô
(trần lao) để hóa độ chúng sanh, mà tâm chẳng ô nhiễm, thật hành theo “đồng
sự nhiếp” của bồ tát để hóa độ người.
Có khi vị
này phải thị hiện làm việc lầm lỗi như người nhưng không bao giờ dùng lý
luận miễn cưỡng để bào chữa lỗi mình, trái lại luôn luôn khen ngợi hạnh
thanh tịnh và tự chỉ trích lỗi lầm của mình.
Ngài Như
Sơn giải nghĩa chữ “Thiện tri thức” như vậy: Thiện là hay, khéo. Tri
là biết bịnh. Thức là biết thuốc. Nghĩa là vị này có tài biết
chơn vọng, tà chánh, biết tâm bịnh của chúng sanh, biết pháp dược của Phật
để đối trị.
***
-Này THiện
nam! Chúng sanh đời sau nếu gặp vị Thiện hữ tri thức như thế, phải hết
lòng cung dường, không tiếc thân mạng. Vị thiện tri thức này khi giữ
bốn oai nghi thanh tịnh, hành giả cung kính đã đành, mà khi thị hiện lẫn
lộn với chúng sanh làm các tội lỗi để giáo hóa chúng sanh (đồng sự nhiếp),
hành giả cũng chớ nên sanh tâm khinh dễ.
-Này thiện
nam! Ðối với thiện hữu tri thức này, mà hành giả không khởi một niệm
khinh thường, thì hoa lòng (Tâm hoa) sẽ được rộng mở, chiếu sáng khắp cả
mười phương thế giới và thành tựu qủa Phật.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này Phật dạy: “y pháp bất y nhơn”. Trong luận Trí Ðộ nói: “nếu vị
thiện tri thức kia, có thể giải thích các nghĩa lý sâu xa của Phật,
dẫn dắt hành giả tu theo chánh Ðạo, được lợi ích, thì hành giả phải hết
lòng cung kính, như tôn kính Phật, chẳng nên nghĩ những việc lỗi lầm của
thiện hữu tri thức. Thí như cái đãy xấu đựng ngọc, chớ nên vì đãy xấu mà bỏ
vật báu. Người có ghẻ lát cầm đuốc đưa hành giả qua con đường nguy hiểm
trong lúc ban đêm, chớ nên chê người lát mà không dùng đuốc
sáng. Người cầu dạo cũng thế: khi tìm được thiện hữu tri thức có thể
dẫn dắt hành giả đi trên đưòng tu hành, thì hành giả phải trước sau một
lòng tôn kính. Khi thiện tri thức giữ giới thanht ịnh, hành giả cung
kính đã đành, mà khi Ngài vì chúng sanh thực hành theo hạnh “đồng sự nhiếp”
của bồ tát, người cầu đạo không nên thấy thế mà sanh tâm chấp nhứt và khinh
thường. Ðược như thế, mới chứng được Phật đạo.
***
4. Phật
nói bốn định
-Này thiện
nam! Vị thiện tri thức kia, đã chứng được diệu pháp và rời cả bốn bịnh
sau đây:
a. Bịnh tác
(làm các việc lành)
Như có
người chấp như thế này: Bản tâm của tôi, vì muốn cầu Viên giác, nên làm tất
cả các hạnh”. Song tánh Viên giác kia, không phải do làm mà được. Bởi
hành giả lấy cái “làm” để cầu Viên giác, nên gọi là “bịnh tác” (bịnh làm).
LƯỢC GIẢI
Chữ “Tác”,
nghĩa là làm. Tánh Viên Giác đâu có phải do “làm” mà được. Cũng như
mặt trăng kia đâu phải do vẹt mây mới có. Bởi thế nên hành giả chấp:
“phải làm các hạnh lành để cầu nhập Viên giác”, thì không có thể được. Vì
tánh Viên giác là thanh tịnh, vô vi và vô lậu mà hành giả lại dùng pháp hữu
vi để cầu cảnh giới vô vi thanh tịnh, thì không thể được, nên gọi là “bịnh
làm”.
Ðọc đến
đoạn này, độc giả không sao khỏi thắc mắc: tại sao bài trước Phật lại nói:
“... Tánh Viên giác không phải do làm các hạnh lành mà được, nếu chấp do
làm mà được, thì thành ra bệnh “Tác” v.v.. Lời nói của Phật trưóc sao in
tuồng mâu thuẫn. Nếu không suy nghĩa kỹ thì độc giả sẽ không hiểu.
Chúng tôi
thường ví dụ: muốn cho lớp học được yên tịnh, thời phải làm sao trong
lớp đừng có tiếng động, nếu có tiếng động thi lớp học chẳng được yên
tịnh. Cũng như muốn đặng tính Viên giác vô vi thanh tịnh, thì không
thể dùng pháp hữu vi vọng động mà cầu. Nếu dùng hữu vi vọng động mà
cầu thì không bao giờ đặng Viên giác vô vi thanh tịnh.
Mặc dù như
thế, song người muốn nhập Viên giác quyết định phải trải qua hai giai đoạn:
1.
Gia đoạn đầu tiên, người muốn nhập Viên giác thanh tịnh, phải có học tu, bỏ
các việc dữ, làm các việc lành v.v... Cũng như các ông thầy giáo, thấy học
trò làm ồn, muốn cho lớp học được yên tịnh, giai đoạn đầu tiên, phải dùng
tiếng ồn để trị ồn. Nghĩa là ông thầy giáo phải gõ thước trước trên
bảng cho lớn, thì các học trò mới hết làm ồn. Cũng như người đời
nói: dùng độc trị độc, trong Ðạo nói : lấy vọng để trừ vọng.
Ðến khi học
trò đã im lặng rồi, mà thầy giáo vẫn gõ hoài trên bảng để mong cho lớp học
được yên tịnh, thì không thể được. Vì tiếng gõ là tiếng động, rất trái
với tịnh, làm sao lấy cái “động”, để cầu cái “tịnh” cho được. Cũng như
người dùng cái tạo tác hữu vi, để cầu Viên giác vô vi thanh tịnh, không thể
được.
2. Vì
thế nên bước qua giai đoạn thứ hai: Thầy giáo phải thôi gõ bảng thì lớp học
mới hoàn toàn yên tịnh. Cũng như hành giả, phải trừ cái bịnh “làm”,
mới đặng Viên giác thanh tịnh.
Người muốn
đến bờ giải thoát, trước hết phải dùng cái bè tu học để qua sông
mê. Song khi đã đến bờ rồi, mà cứ ôm cái bè mãi thì làm sao lên bờ
được.
Tóm lại,
hành giả muốn nhập Viên giác thanh tịnh, phải trải qua hai giai đoạn:
1.
Giai đoạn đầu tiên, hành giả dùng cái bè tu học, bỏ dữ làm lành để qua sông
mê. Hay nói một cách khác là dùng tiếng gõ bảng của thầy giáo, để trừ tiếng
ồn của học trò.
2.
Ðến giai đoạn tối hậu, hành giả phải bỏ cái bè hữu vị tu học, mới mong lên
bờ giải thoát vô vi kia được. Hay đổi lại cách nói: ông thầy giáo phải
thôi gõ bảng thì trong lớp mới đặng yên tịnh.
Cũng ý này,
trong kinh “tứ thập nhị chương” Phật dạy: “... tu vô tu tu, chứng vô chứng
chứng...” Nghĩa là: tu đến chỗ vô tu mới thật tu, chứng đến chỗ vô chứng
mới thật là chứng v..v...
Bởi thế nên
cổ nhơn có dạy rằng: “hữu vi tuy ngụy, xả chi tắt Phật đạo nan thành”: Các
việc tu hành về hữu vi tuy rằng hư nguy chẳng nhằm chi, nhưng
nếu hành giả bỏ đi, thì Ðạo Phật vô vi khó thành. Hay là câu: “thật
tế lý địa bất thọ nhứt trần, vạn sự môn trung bất xả nhứt pháp”: Ðành rằng
chỗ lý tánh chơn thật (viên giác) không thọ một mảy trần, nhưng về sự
tướng tu hành thì muôn điều không bỏ một việc lành nào.
b. Bịnh
nhậm (mặc kệ, không tu hành)
-Này thiện
nam! như có ngưòi chấp như thế này: “Tôi nay không cần đoạn sanh tử và cũng
không cầu niết bàn. Người muốn cầu Viên giác, chớ nên móng niệm diệt
sanh tử hay cầu niết bàn, mặc tình cho sanh tử hay niết bàn, tùy pháp tánh
mà sanh hay diệt”.
Hành giả
chấp như thế, là bị bịnh nhậm (mặc kệ); vì tánh Viên giác kia, đâu có phải
để mặc kệ (nhậm) như vậy mà nhập được.
LƯỢC GIẢI
Chữ nhậm là
mặc kệ. Bịnh này do hành giả chấp: “Tánh viên giác không phải do tu
hành, làm các hạnh lành v.v.. mà nhập được”. Nên hành giả để mặc cho
nghiệp lực xoay chuyển, chẳng sợ tôị lỗi, không ham phước lành, sanh tử
không chê, niết bàn cũng chẳng quý; vì thế nên không nhập được Viên
giác.
c. Bịnh chỉ
(dứt các vọng niệm)
-Này thiện
nam! Như có người chấp như thế này: “Tôi nay muốn cầu Viên giác, nên phải
dứt hết các vọng niệm, đặng tất cả pháp bình đẳng vắng lặng”.
Chấp như
thế, là bị bịnh “chỉ”; vì tánh Viên giác kia, đâu có phải do “dừng chỉ” các
vọng mà nhập được.
LƯỢC GIẢI
Chữ “chỉ”
là dứt các vọng niệm. Bởi hành giả thấy bịnh “tác” làm cho tâm khởi
động bịnh “Nhậm” (mặc kệ) làm tâm phóng túng cả hai đều không nhập Viên
giác được, nên hành giả xoay trở về nơi “chỉ” (dừng đứng)
Vì vọng
niệm mà thấy các pháp sai khác, không được bình đẳng, cho nên hành giả tu
“chỉ” để dứt vọng niệm. Ðâu biết rằng: tánh viên giác không có “niệm”,
nếu khởi niệm thì trái, Viên giác không có “Chỉ”, nếu hành giả lại “chỉ”,
thì làm sao nhập được viên giác.
d. Bịnh
diệt (diệt các phiền não)
-Này Thiện
nam! Như có người chấp như thế này: “Tôi nay muốn cầu Viên giác, nên
vĩnh viễn đoạn các phiền não, nào thân tâm nào cảnh vật, tất cả đều hư vọng
không thật có, rốt ráo vắng lặng”. Dùng cái “diệt” (vắng lặng) mà
cầu Viên giác như thế là mắc bịnh diệt; vì tánh Viên giác đâu có phải chỉ
vắng lặng.
LƯỢC GIẢI
Chữ “diệt”
là dứt các phiền não, tâm và cảnh đều vắng lặng. Song tánh Viên giác
vừa tịch (vắng lặng) lại vừa chiếu (linh tri). Tịch và Chiếu không
hai. Hành giả chỉ chấp một bên “tịch” thì không hợp với tánh Viên giác.
***
-Tóm lại,
người cầu đạo phải rời bốn bịnh trên, mới được nhập Viên giác thanh
tịnh. Người quán sát để trừ bốn bịnh như thế, là Chánh quán; nếu trái
lại, là tà quán.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
tóm lại bốn bịnh trên. Chữ “Tác” là làm; “nhậm” là không làm, để mặc
kệ; “chỉ” là dùng chỉ các vọng niệm đương sanh và sẽ sanh; “diệt” là dứt
các phiền não đã sanh. Bởi tánh Viên giác bất sanh bất diệt, bất cầu bất
tịnh, bất tăng bất giảm, vô vi vô lậu, mà hànhg giả dùng Tác, Nhậm, Chỉ,
Diệt v.v.. để cầu, thì không hiệp với tánh Viên giác.
Ngài Như
Sơn nói: Ðem bốn bịnh “Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt” mà chiêm nghiệm lại tâm tư của
mình, nếu còn một món nào thì cũng đều là bịnh cả; phải trừ hết bốn bịnh
này, mới được nhập viên giác thanh tịnh
***
5. Phật
trả lời câu hỏi thứ ba: “phải làm những hạnh gì?”
-Này thiện
nam! Chúng sanh đời sau muốn tu hành, suốt đời phải kính trọng cúng
dường Thiện hữu tri thức. Khi thiện hữu tri thức ở gần gũi, hành giả
chớ nên khinh lờn. Khi thiện hữu tri thức đi xa, hànhg iả chớ nên hờn
giận.
Khi thiện
hữu tri thức hiện ra cảnh thuận hay nghịch, tâm hành giả phải như hư không,
chớ nên thay đổi. Hành giả phải rõ biết: thân tâm minh cùng thầy bạn
và các chúng sanh, đồng một bản thể bình đẳng rốt ráo không khác. Hành
giả phải tu hành như thế, mới nhập được viên giác.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật trả lời câu hỏi thứ ba: “phải làm những hạnh gì?”
Hạnh bồ tát
rất nhiều, nhưng việc thờ Thầy là điều rất cần thiết. Vì đời mạt pháp
nhược ma cường, nếu không có Minh sư chỉ dẫn, thì hành giả không sao khỏi
bị lạc vào đường tà. Bởi thế nên hành giả phải suốt đời cung kính phục
sự Thầy. Dù cho thiện tri thức làm những điều thuận ý hay nghịch lòng,
hành giả cũng phải giữ một niềm tôn kính, tâm như hư không chớ nên thay
đổi.
Hành giả
phải quán sát: Thầy bạn cùng chúng sanh và mình đều đồng một thể viên giác,
không riêng khác. Do đó hành giả mới bỏ được tánh kiêu mạn của mình để thờ
Thầy, quên bản ngã để độ sanh. Phải tu hạnh như thế, mới nhập được
Viên giác.
***
6. Phật
trả lời câu hỏi thứ tư: “Phải trừ bỏ bịnh gì?”
-Này thiện
nam! Chúng sanh đời sau, không đuợc thành Ðạo, đều do tất cả hạt giống
thương ghét, nhơn ngã, từ vô thỉ đến giờ. Vì thế nên chẳng được giải
thoát.
Nếu người
xem những kẻ oan gia cũng như cha mẹ không khác, đối với các pháp tâm cũng
không thương ghét, phân biệt tự tha, thì người ấy sẽ trừ được các bịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trước
Ngài Phổ Giác bồ tát hỏi PHật: “phải trừ những bịnh gì?” - Ðoạn này Phật
trả lời: “phải trừ thương ghét”
Ðành rằng
trong bài số 9, Phật đã dạy trừ thương ghét, nhưng chỉ nói về phần thô
(hiện hành). Ðến đoạn này Phật dạy trừ về phần vi tế của thương ghét
tức là chủng tử. Nếu còn một chút ít thương ghét ngấm ngầm bên trong
làm chướng ngại, thì hành giả không thể nhập được Viên giác thanh tịnh.
Bao giờ
hành giả đối với kẻ oan gia, xem cũng như cha mẹ, bình đẳng không khác, xem
sanh tử và Niết bàn chẳng hai, thì hành giả mới đoạn được chủng tử của
thương ghét và mới có thể nhập viên giác thanh tịnh.
***
7. Phật
trả lời câu hỏi thứ năm: “phải phát tâm thế nào?”
-Này thiện
nam! Chúng sanh đời sau muốn cầu Viên giác thì phải phát tâm như
thế này: “tôi nguyện độ tất cả chúng sanh khắp cả hư không, đều được rốt
ráo vào Viên giác; người được viên giác không chấp ở nơi viên giác; trừ hết
các tướng Nhơn và Ngã v.v..” - Phải phát tâm như vậy mới khỏi đọa vào
tà kiến.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật trả lời câu hỏi thứ 5 mà ngài PHổ Giác bồ tát đã hỏi Phật: “Phải phát
tâm thế nào?”
Phật trả
lời phải phát tâm như vầy, mới khỏi đoạ vào tà kiến:
1.
Phát tâm quảng đại: nguyện độ tất cả chúng sanh (noãn, thai, thấp, hóa)
trong mười phương.
2.
Phát tâm rốt ráo: độ chúng sanh nhập viên giác cứu kính.
3.
Phát tâm chơn thường: ở trong viên giác mà không khởi vọng chấp nơi
viên giác.
4.
Phát tâm không điên đảo: Không khởi vọng tưởng điên đảo chấp các tướng:
ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng và tướng độ sanh.
Hai món
phát tâm trước là đại bi, hai món phát tâm sau là đại trí. Bi và Trí
được viên dung là do phát bốn món tâm trên được tròn. Câu hỏi của ngài
Phổ Giác giống như trong kinh Kim Cang, câu hỏi của Ngài Tu Bồ Ðề: “Vân hà
ưng trụ?” (Phải trụ tâm như thế nào?_
Ðoạn này
nói chữ “phát tâm”, nghĩa là tâm phát nguyện. Như nguời đời nói “lập
chí”. Nhờ phát nguyện hay lập chí mà người đời tu hành vượt qua bao
nhiêu trở lực khó khăn và thúc đẩy sự tu hành mau được thành công. Nếu
“nguyện” rất thiết, thì hạnh mới chuyên cần. Do đó mà mau đuợc kết
quả. Các đức Phật cũng nhờ phát nguyện rồi y theo nguyện đó tu hành mà
được thành đạo chứng quả.
Hành giả
nếu không có “nguyện lực” của mình làm động cơ thúc đẩy trên trường tu
hành, thì quả Phật khó mà đạt được.
***
8. Phật
nói bài kệ, tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức
Thế Tôn muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
- Phổ Giác
ông nên biết
Những chúng sanh đời sau
Muốn cầu thiện tri thức
Nên cầu người chánh kiến
Tâm xa lìa Nhị thừa
Trong pháp trừ bốn bệnh
Là Tác, Chỉ, Nhậm, Diệt
Thân cận không kiêu mạn
Xa lìa không sân hận
Thấy các thứ cảnh giới
Tâm phải sanh hy hữu
Xem như Phật ra đời
Không phạm điều trái luật
Giới căn hằng thanh tịnh
Độ tất cả chúng sanh
Rốt ráo vào Viên giác
Không có tướng ngã nhân
Nên y chánh trí tuệ
Liền được khỏi tà kiến
Chứng giác Bát Niết-bàn.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài
kệ này nói tóm tắt lại các nghĩa trên: Các chúng sanh đời sau muốn cầu
thiện tri thức, phải tìm người chánh kiến. Làm sao biết chánh kiến? –
Là đã trừ bốn bịnh và xa lia tư tưởng Nhị thừa
Cách đối xử
với thiện tri thức: khi thân cận chớ nên khinh lờn, khi xa cách chớ nên sầu
hận. Khi thấy thiện tri thức hiện ra, cảnh thuận hay nghịch, hành giả
chớ nên vì thấy thế mà đổi tâm, phải lấy làm hy hữu và kính như Phật ra
đời. Hành giả phải giữ giới hạnh thanh tịnh, không phạm các tội lỗi và
độ các chúng sanh, rốt ráo vào viên giác.
Hành giả
phải y trí huệ chơn chánh, trừ các tướng Ngã, Nhơn mới khỏi đọa tà kiến và
được nhập viên giác hay chứng quả niết bàn.
BÀI THỨ
MƯỜI MỘT
XI. CHƯƠNG VIÊN GIÁC
1. Ngài
Viên Giác bồ tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài
Viên Giác bồ tát ở trong Ðại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật 3
vòng rồi lạy Phật và chắp tay quỳ thẳng bạch rằng:
-Bạch Ðức
đại bi Thế Tôn! Ngài đã vì chúng con rộng nói các phương tiện để nhập
Viên giác thanh tịnh, khiến cho chúng sanh đời sau đặng lợi ích lớn
Bạch Thế
Tôn! Chúng con ngày nay đã được khai ngộ rồi. Nếu sau khi Phật
nhập diệt, chúng sanh đời sau chưa được khai ngộ, thì làm sao an cư để tu
tập cảnh giới Viên giác thanh tịnh này? Và ba pháp quán thanh tịnh
trong Viên giác đây, phải tu pháp nào trước?
Cúi xin đức
Ðại bi vì đại chúng và chúng sanh đời sau, bố thí cho chúng con được
lợi ích lớn.
Ngài Viên
Giác bồ tát thưa thỉnh như vậy 3 lần, kính lạy dưới chân Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Ngài Viên Giác Bồ tát hỏi Phật có hai câu:
1. Làm sao
an cư tu Viên giác thanh tịnh?
2. Ba môn
quán thanh tịnh nên tu pháp nào trước?
Chữ “Viên
giác bồ tát” – Viên Giác là Giác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã
nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minh và chứng nhập Viên
giác. Nhưng đứng về phương diện tu hành, không phải tu nhứt thời mà
chứng được Viên giác; phải lần lượt như người lau guơng, lau nhiều bụi mới
sạch. Bụi càng sạch thì gương càng sáng; sáng, sạch đến chỗ hoàn toàn
là dụ cho Viên giác.
Xin nhắc
lại, trước về chương “Tịnh chư Nghiệp chướng” là dạy hành giả chưa được phổ
biến. Ðến chương “Phổ Giác”, bồ tát cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu
hành để cho Giác tánh được phổ biến, nhưng chưa Viên. Ðến chương “Viên
Giác” là nói Giác tánh Viên mãn. Chương này bồ tát hỏi Phật về việc an
cư và tu 3 pháp quán, toàn chú trọng về sự tướng tu trì. Cho biết: Sự
chưa tròn là Lý chưa Viên. Lý Viên là nhờ sự tròn. Thí như người
tu đức từ bi, nếu chưa phổ cập đến loài vi tế côn trùng (hộ mạng côn trùng)
thì lòng từ bi chưa tròn.
***
2. Phật
khen ngài Viên Giác Bồ tát
Khi ấy đức
Thế Tôn khen ngài Viên Giác bồ tát và bảo rằng:
-Này Thiện
nam, hay lắm và quý lắm! Ông thưa hỏi Như Lai những phương tiện tu
hành, thế là ông bố thí cho chúng sanh lợi ích rất lớn. Vậy các ông
nên lóng nghe, ta sẽ vì các ông mà chỉ giáo.
Khi ấy Ngài
Viên Giác bồ tát và đại chúng đều yên lặng và hoan hỷ nghe lời Phật chỉ
giáo.
3. Phật
dạy pháp an cư
-Này Thiện
nam! Khi Phật còn tại thế hoặc nhập diệt rồi, hay đời mạt pháp(1) nếu
chúng sanh nào có đủ căn tính Ðại thừa, tin cái tâm Viên giác của Phật,
phát tâm tu hành; như ở Già Lam (chùa) thì phải lo xếp đặt chúng Tăng, hoặc
có những duyên sự khác không thể chuyên tu tập được, thì tùy phận của Hành
giả, tư duy và quán các pháp môn mà ta đã dạy trước.
Nếu không
có nhơn duyên khác, thì hành giả phải lập đạo tràng và định thời kỳ tu
tập. Nếu thời gian đài thì 120 ngày, vừa thì 100 ngày, ngắn thì 80
ngày.
Cách bài
trí trong tịnh thất, phải treo tràng phan và đủ cả hương hoa. Như Phật còn
tại thế thì nên chánh suy nghĩ. Nếu Phật nhập diệt rồi thì an trí hình
tượng Phật, mắt nhìn tâm tưởng nhớ, kính đồng như Phật còn tại thế
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật dạy hai cách:
1.
Người phát tâm tu hành, nếu vì bận rộn việc chùa hoặc các duyên sự khác,
không thể nhập đạo tràng chuyên tu được, thì hành giả nên quán sát các pháp
môn của Phật dạy, như trong chương Phổ Nhãn v.v..
2.
Nếu không có duyên sự gì bận rộn, thì hành giả nên lập đạo tràng và phân kỳ
mà tu tập. Trường kỳ là 120 ngày, trung kỳ là 100 ngày, đoản kỳ là 80
ngày.
Nếu Phật
còn tại thế, thì hànhg iả chỉ chánh tâm nhớ nghĩ đức Phật, khỏi cần có hình
tượng. Nếu Phật nhập diệt rồi, thì nên thờ tượng Phật để mắt nhìn,
tâm tưởng, kính như Phật còn tại thế.
______
(1)Chữ “Mạt
pháp” – Giáo pháp của Phật có chia làm 3 thời kỳ:
1. Chánh
pháp, 1000 năm
2. Tượng
pháp (mường tượng như chánh pháp) 1000 năm
3. Mạt pháp
(rốt ngọn) 10000 năm. Hiện nay (1992) Phật lịch 2536, thế là đã sang
mạt pháp 536 năm.
***
4. Phật
dạy 21 ngày đầu, ở trong tịnh thất
-Trải qua
21 ngày đầu, hành giả kính lạy danh hiệu của các đức Phật trong 10 phương
và chí thành sám hối. Nếu gặp cảnh giới tốt, thì hành giả tâm đuợc nhẹ
nhàng thư thới (khinh an). Qua 21 ngày rồi, hành giả phải chuyên
nhiếp vọng niệm.
LƯỢC GIẢI
Người mới
tu, giới đức chưa đủ, thân tâm chưa được thanh tịnh, nên không có năng lực
tu định huệ. Vì thế nên lúc ban đầu phải lập đạo tràng. Hành giả trải
qua 21 ngày đầu lễ Phật và sám hối. Cũng như cái chén cần rửa cho sạch
mới có thể đựng Ðề hồ được. Hành giả phải nhứt tâm thật hành như vậy,
thì thân mới được thanh tịnh. Trong 21 ngày, hoặc căn lành phát hiện,
hay có cảm ứng: hành giả thấy được điềm lành, thời thân tâm sẽ được khoan
khoái.
“Cảnh giới
tốt”: Như ở trong chiêm bao thấy Phật, hoặc khi làm lễ sám hối
thấy hào quang v.v...
***
5. Phật
dạy an cư 3 tháng theo bồ tát thừa
-Này Thiện
nam! Nếu gặp đầu mùa Hạ 3 tháng an cư, thì hành giả phải an trụ nơi
hạnh thanh tịnh của Bồ tát, tâm lìa tư tưởng của Thinh văn, không nhờ đồ
chúng.
Ðến ngày an
cư, hành giả phải đối trước Phật phát nguyện như vầy: “Con là Tỳ kheo (tên
gì) hoặc Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc hay Ưu bà di, nguyện tu theo hạnh tịnh diệt
của Bồ tát thừa, trụ trì nơi thật tướng, lấy đại viên giác làm già lam
(chùa). Thân tâm con an cư nơi “Bình đẳng tánh trí” hay “tự tánh
Niết bàn”, không có hệ thuộc xứ sở.
Con nay
chẳng y theo Thinh văn, con kính thỉnh mười phương chư Phật và các vị Bồ
tát cùng với con đồng làm pháp an cư 3 tháng. Con vì một nhơn duyên
lớn là tu bồ tát hạnh, cầu chứng quả Vô thượng Diệu giác, nên không hệ
phược đồ chúng.
Tu như thế
mãn 3 thời kỳ rồi, tùy ý hành giả ra vào vô ngại. Ðây gọi là bồ tát
thị hiện an cư.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
chia làm 3 phần:
1.
Phật dạy hành giả lập thời kỳ tu tập như vậy chưa đủ mà phải an cư 3 tháng,
bắt đầu từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch. Người phát tâm bồ
đề tu theo viên giác, thì phải an cư theo bồ tát hạnh. Nghĩa là không
cần phải tập chúng an cư theo luật tiểu thừa, mà tâm của hành giả phải luôn
luôn an trụ nơi hạnh thanh tịnh của Bồ tát. Bởi thế nên trên nguyên
văn kinh nói: “Tâm rời tư tưởng của Thinh văn, không nhờ đồ chúng”.
2.
Ðến ngày an cư, hành giả phải đối trước Phật bạch như vầy:
“Con
tên. thọ giới tỳ kheo hay Tỳ kheo Ni, Ưu bà Tắc (thiện nam) hay Ưu Bà
Di (Tín nữ); nay y theo pháp đại thừa, tu theo hạnh tịch diệt của bồ tát,
lấy viên giác làm chùa, thân tâm con thường an trụ nơi “tự tánh Niết bàn”
hay “bình đẳng tánh trí”.
3.
Hành giả đối trước Phật phát nguyện rằng:
“Con nay vì
muốn tu hạnh Viên giác, nên không theo luật an cư của thinh văn (tiểu thừa)
không tập chúng tăng an cư, mà con chỉ cầu thỉnh 10 phương chư Phật và Bồ
tát cùng với con làm pháp an cư trong 3 tháng. Hành giả an cư như thế
3 tháng, sau khi mãn thời kỳ rồi, tùy ý đi tới lui không ngại.
Chữ “Tịch
diệt”: Diệt các phiền não, tâm được tịch tịnh, tức là nói: ý theo tâm chơn
như không sanh diệt mà tu.
Chữ “thật
tướng” Tướng chơn thật, tướng này không sanh không diệt, không cấu không
tịnh, không tăng không giảm, không bị thời gian thay đổi, không gian chuyển
dời, tức là chỉ cho “chơn như thật tướng”, cũng là cái biệt danh “viên
giác”
“Viên giác
làm chùa” - Tiểu thừa an cư thì lấy sự tướng là cảnh chùa (già lam) của
mình ở, làm nơi tu hành, bồ tát an cư thì lấy lý tánh là Viên giác làm chuà
của mình ở tu, nên nói: “lấy Viên giác làm chùa”.
“Bình đẳng
tánh trí”. – Hành giả đã an cư nơi thật tướng, tức là tánh Viên giác, nên 6
căn ở thân không tạo nghiệp, 6 thức không dong ruỗi theo 6 trần.
Lúc bấy giờ
5 thức trước, chuyễn lại làm “thành sở tác trí”; thức thứ 6 chuyển thành
“Diệu quan sát trí”.
Khi hành
giả chưa an trụ nơi Viên giác thì thức thứ 7 này chấp ngã, nhơn, bỉ
thử. Ðến khi hành giả an trụ nơi Viên giác, thì thức thứ 7 chuyển
thành “Bình đẳng tánh trí”. Lúc bấy giờ thức thứ 8 không còn bị
thức thứ 7 chấp làm “ngã” nữa, nên thức thứ 8 chuyển thành “Ðại viên cảnh
trí”.
Chữ “niết
bàn tự tánh”: cũng gọi là “tánh tịnh Niết bàn”, tức là biệt danh của Chơn
như hay Viên giác.
Chữ “không
hệ thuộc xứ sở”: tiểu thừa an cư phải có cảnh chùa để làm đạo tràng xứ
sở. Ðến như bồ tát thì lấy “Niết bàn tự tánh” làm đạo tràng, nên nói:
“không hệ thuộc xứ sở”.
Chữ “vô
thượng Diệu giác”: quả vị Phật sáng suốt (giác) mầu nhiệm (diệu) không có
quả vị nào trên (vô thượng)
***
6. Khi
thấy thắng cảnh, hành giả chớ nên chấp trước
-Này thiện
nam! Như chúng sanh đời mạt pháp muốn tu hành để cầu đạo bồ tát trong khi
vào tu 3 thời kỳ này, nếu thấy có các thắng cảnh hiện ra, mà không đúng như
hành giả đã nghe thấy, thì quyết không nên chấp thủ.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này
Phật dạy hành giả khi tu, nếu thấy hiện ra cảnh giới thù thắng, không nên
luyến trước.
Hành giả
khi dụng công tu hành, cố nhiên sẽ có cảnh giới thù thắng lạ thường hiện
ra. Song, nếu sanh tâm chấp trước, không phân biệt chánh tà, thì hành
giả dễ mắc lưới ma. Cho nên hành giả phải thấy các cảnh giới ấy đúng
như sự nghe học của mình, nghĩa là lời Phật dạy, hoặc thiện tri thức bảo
hay trong kinh sách dạy như thế nào, thì khi các cảnh ấy hiện ra phải đúng
như thế ấy, mới gọi là chơn chính. Trái lại là ngũ ấm ma hiện (nên xem
đoạn Ngũ Ấm Ma, trong kinh Lăng Nghiêm)
Phàm người
tu hành, không ai chẳng nhơn nghe hiểu rồi sanh lòng tin, nhơn có tin mới
tu, nhơn tu mới có chứng, chứng là kết quả của nghe, tin và tu. Thế
nên tin, hiểu, tu và chứng trước sau phải hiệp nhau. Nếu chỗ chứng
(cảnh giới hiện ra) không hiệp với sự nghe thì bất luận hiện ra cảnh giới
thiện hay ác, cũng đều là Ma cả.
***
7. Tu chỉ (Xa Ma tha)
-Này thiện nam! Như có các chúng sanh tu pháp “chỉ” (Xa ma tha)
trước giữ chỗ chí tịnh (rất yên lặng) không khởi vọng niệm nhớ nghĩ; do yên
lặng tột bực nên trí giác hiện ra. Như vậy từ khi mới bắt đầu tịnh và
ở một thân, cho đến khi khắp cả một thế giới đều tịnh. Cũng thế, “trí
giác” bắt đầu hiện ra ở một thân cho đến khắp cả một thế giới đều “giác”.
-Này thiện nam! Khi “trí giác” đã hiện khắp một thế giới, thì
trong thế giới ấy nếu có một chúng sanh nào, móng lên một niệm, lúc bấy giờ
hành giả đều biết cả. Cho đến trăm ngàn thế giới cũng thế.
Các cảnh giới ấy, nếu không phải đúng như sự nghe của hành giả, thì
quyết chẳng nên chấp thủ.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật dạy hành giả khi tu Ðịnh, đến chỗ tột bực, nên
trí giác (huệ) phát sinh. Bởi từ một thân tịnh cho đến một thế giới tịnh,
nên trí giác phát ra cũng từ một thân cho đến khắp cả thế
giới. Vì cả thế giới đều là “trí giác” của hành giả, nên có một chúng
sanh nào vừa móng niệm, thì hành giả đều biết hết.
Song những cảnh giới đã hiện ra, phải đúng như sự thấy nghe mà hành giả
đã từng nghe thiện tri thức hay trong kinh chỉ dạy, như thế cảnh thấy mới
chánh. Nếu trái lại là Ngũ ấm Ma hiện.
Ngài Như Sơn nói: “Vì toàn cả thế giới đã thành “giác” nên chúng sanh
toàn ở trong giác tánh của hành giả. Bởi thế nên khi chúng sanh khởi
ra một niệm gì, thì hành giả đều biết cả. Cũng như bóng đã hiện trong
gương, nên gương chiếu không sót”.
Trong kinh Viên giác lược sớ chép: hành giả tin, hiểu, tu, và chứng tuy
thứ lớp không đồng, nhưng phải không khác. Nghĩa là: “hiểu là hiểu
theo chỗ mình Tin, Tu là Tu theo chỗ mình hiểu. Chứng là chứng theo
chỗ mình Tu. Nay những cảnh giới của hành giả chứng, nếu không phải
đúng như chổ hiểu, tin và tu, thì không nên chấp thủ”.
***
8. Tu quán (ta ma bát đề)
-Này thiện nam! Nếu chúng sanh, tu pháp “quán”, thì trước phải nhớ
tưởng mười phươgn các đức Phật và các vị bồ tát, rồi y theo các pháp môn
của Phật dạy đó mà siêng năng cần khổ tuần tự tu hành, đặng thành tam muội
và phát nguyện rộng lớn, tư huân tập thành chủng tử. Trong lúc tu, nếu
có hiện ra những cảnh giới gì mà không dúng như chỗ nghe của hành giả, thì
chớ nên chấp thủ.
LƯỢC GIẢI
Phật dạy người tu “quán”, trước phải nhớ tưởng các đức Phật và bồ
tát rồi y theo các pháp môn của Phật dạy mà siêng năng khổ hạnh tuần tự tu
hành để thành tam muội. Và phải phát đại nguyện huân tập vào tâm thức
của hành giả để thành chủng tử.
Trong khi tu, nếu có những cảnh giới gì hiện ra mà không đúng như chỗ
của hành giả đã nghe thầy bạn dạy bảo, hay trong kinh luật chỉ giáo, thì
không nên chấp thủ; vì đó là Ma hiện.
“Tam muội” – Xem đoạn giải thứ 2 trogn chương Phổ Hiền Bồ tát.
***
9. Chỉ quán song tu (thiền na)
-Này thiện nam! Nếu có chúng sanh muốn tu Thiền na (Chỉ quán song
tu) thì trước phải tu pháp môn sổ tức; trong tâm hành giả biết rõ được mỗi
niệm khi sanh, trụ, dị và diệt; phân biệt được ranh giới và số mục của các
niệm. Cho đến khắp cả bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi). Hành
gia cũng đều biết; cũng như con mắt thấy các vật dụng. trong khi tu nếu
thấy có hiện ra cảnh giới gì không đúng như sự thấy nghe của hành giả thì
không nên chấp thủ.
Ðây là phương tiện đầu tiên tu hành của hành giả, tức là ba pháp
quán. Nếu các chúng sanh tinh tấn siêng tu ba pháp quán này được hoàn
toàn, tức là Như Lai xuất hiện ở thế gian vậy.
LƯỢC GIẢI
Ngaì Viên giác bồ tát hỏi Phật: Hành giả đối với 3 pháp quán, tu pháp
nào trước? - Phật dạy trước tu pháp “chỉ” giữa tu pháp “Quán”, sau tu “chỉ,
quán song tu”.
Ðoạn này Phật dạy “Chỉ, Quán song tu”. Người tu pháp này, trước
phải tu pháp sổ tức (đếm hơi thở). Nhờ có điều hòa hơi thở, nên tâm
được tịnh (chỉ); nhờ tâm được tịnh nên những vọng niệm thô tế, khi sanh,
trụ, dị và diệt, giới hạn của nó dài ngắn, lâu mau, nhiều hay ít, hành giả
đều biết được hết (quán)
Hành giả tịnh tọa, dụng tâm tu pháp quán như vậy, khi mới thành công,
thời trong tất cả thời gian động tịnh như đi, đứng, nằm ngồi v.v... hành
giả đều hiểu biết phân biệt được rõ ràng, mỗi niệm, khi sanh, trụ, dị và
diệt, giới hạn dài ngắn hay lâu mau và ít nhiều v.v...
Ðến lúc thành công hoàn bị, thì trong trăm ngàn thế giới, có những vật
gì, cho đến có bao nhiêu hạt mưa, hành giả cũng đều biết được
hết. Không phải hành giả hiểu biết một cách lờ mờ, mà hiểu biết một
cách rõ ràng; cũng như mằt xem thấy các sự vật thụ dụng vậy.
***
10. Tóm
tắt
-Này Thiện
nam! Nếu chúng sanh đời mạt pháp, tâm muốn cầu đạo, nhưng vì nghiệp
chướng đời trưóc nặng nề, căn tánh ám độn, nên tu hành khó thành tựu, thì
phải siêng năng sám hối; thường sanh tâm trông mong đoạn trừ các phiền não:
thương, ghét, tật đố, dối nịnh v.v... và tìm cầu quả vị cao thượng thù
thắng.
Ðối với 3
pháp quán thanh tịnh này, tùy hành giả tu một pháp. Nếu tu pháp quán
này không thành tựu thì tu pháp quán khác, phải lần hồi cầu chứng, chớ nên
thối tâm buông bỏ.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn
này Phật dạy: Nếu chúng sanh đời sau căn tánh ám độn, nghiệp chướng
nặng nề, muốn cầu Phật đạo, nhưng không thành tựu, thì phải siêng năng sám
hối, tâm thường trông mong đoạn các phiền não. Ðối với 3 pháp quán, nếu tu
pháp này không thành tựu thì tu pháp khác, dốc lòng cầu chứng Ðạo, không
nên thối tâm.
***
11. Phật
nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức
Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:
Viên Giác
ông nên biết:
Tất cả các
chúng sanh
Muốn cầu
đạo vô thượng,
Phải lập ba
thời kỳ:
Hai mươi
mốt ngày đầu
Sám hối
nghiệp vô thỉ,
Vậy sau
chánh suy nghĩ;
Nếu phi
cảnh đã nghe,
Thì chẳng
nên chấp thủ
Pháp “chỉ”
rất tịch tịnh
Pháp “Quán”
chánh nhớ nghĩ,
Thiền na rõ
đếm hơi,
Thế gọi là tịnh quán.
Người siêng năng tu tập,
Thế gọi Phật hiện thế.
Kẻ độn căn chẳng thành,
Thì phải siêng sám hối
Các tội từ vô thỉ.
Các tội chướng tiêu rồi,
Cảnh Phật liền hiện trước
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này Phật dạy các chúng sanh muốn cầu đạo vô thượng bồ đề,
thì phải phân ba thời kỳ tu tập. Khi vào tịnh thất, trong 21 ngày đầu, hành
giả phải chí tâm sám hối các nghiệp chướng từ vô thỉ, sau rồi chánh tâm suy
nghĩ.
Trong lúc tu, như có hiện ra cho cảnh giới gì, nếu không đúng với chỗ
thấy nghe của hành giả, thì chớ nên chấp thủ.
Nếu hành giả siêng năng tu tập ba phép quán thanh tịnh là: chỉ, quán và
chỉ quán song tu thì gọi là Phật hiện thế.
Nếu người nào căn tánh ám độn không thể tu ba pháp môn này được thì nên
siêng sám hối các tội từ vô thỉ; khi các tội chướng tiêu diệt rồi, thì cảnh
Phật liền hiện ra trước mặt.
▲
Trở Lên
|
BÀI THỨ
MƯỜI HAI
C. PHẦN LƯU THÔNG
XII. CHƯƠNG HIỀN THIỆN THỦ
1. Ngài
Hiền Thiện Thủ bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Hiền Thiền Thủ bồ tát
3. Phật nói tên kinh này
4. Phật nói công đức trì kinh này
5. Phật khuyên các Ðệ tử phải bảo hộ người trì kinh này
6. Các vị Thiện thần phát nguyện bảo hộ người tu hành
XII. CHƯƠNG
HIỀN THIỆN THỦ
1. Ngài
Hiền Thiện Thủ bồ tát hỏi Phật
Khi ấy ngài
Hiền Thiện Thủ bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng, rồi quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
-Bạch đức
Ðại bi Thế Tôn, ngài đã vì chúng con và các chúng sanh đời sau, rộng rãi
giảng dạy cho chúng con hiểu ngộ được những việc không thể nghĩ bàn.
Bạch Thế
Tôn:
-Kinh Ðại
thừa này tên gì?
-Chúng con
làm sao phụng trì?
-Chúng sanh
tu theo kinh này sẽ được công đức gì?
Chúng con
làm sao bảo hộ những người thọ trì kinh này?
-Phải
truyền bá kinh giáo này ở địa vị nào?
Ngài Hiện
THiền Thủ bồ tát, thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn kinh
này có hai phần:
a. Ngài
Hiền Thiện Thủ bồ tát tán thán Phật, vì chúng sanh giảng giải những việc
không thể nghĩ bàn
b.
Bồ tát hỏi Phât năm điều
1. Kinh này
tên là kinh gì?
2. Làm sao
phụng trì?
3. Chúng
sanh tu theo kinh này sẽ được công đức gì?
4. Làm sao
bảo hộ người thọ trì kinh này?
5. Truyền
bá kinh này ở địa vị nào?
***
2. Phật
khen ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát
Khi ấy đức
Thế Tôn khen ngài Hiền Thiện Phủ Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện
nam, hay lắm và quý lắm! ông vì các vị bồ tát và chúng sanh đời sau,
thưa hỏi Như Lai tên kinh và công đức trì kinh này, các ông nên chăm chú
nghe lời ta chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Vì muốn cho
mưa Pháp gội nhuần chúng sanh đời sau, nên Ngài Hiền Thiện Thủ Bồ tát đứng
lên hỏi Phật về việc thọ trì và truyền bá kinh này. Ðoạn này Phật khen
ngài Hiền Thiện Thủ và bảo phải chăm chú nghe lời Phật chỉ giáo
***
3. Phật
nói tên kinh này
-Này Thiện
nam! Kinh này không phải chỉ mình ta nói, mà các đức Phật trong 10 phương
nhiều như trăm ngàn muôn ức lần số cát sông Hàng, cũng đều nói kinh
này. Các đức Phật trong 3 đời đều bảo hộ kinh này. Mười phương
các vị Bồ tát đều quy y kinh này. Kinh này là tròng con mắt của 12 bộ
kinh. Kinh này có 5 tên:
1. Ðại
Phương Quảng Viên Giác Ðà La Ni Kinh
2. Tu Ða La Liễu Nghĩa kinh
3. Bí mật Vương Tam muội kinh
4. Như Lai quyết định cảnh giới kinh
5. Như Lai tạng tự tánh sai biệt kinh
Các ông phải hết lòng cung kính phụng trì kinh này.
LƯỢC GIẢI
Kinh này nói về tánh “Viên giác”. Người ngộ nhập được tánh
Viên giác thì thành Phật, còn không ngộ được thời làm chúng sanh.
Mục đích của Phật ra đời là độ chúng sanh thành Phật song chúng sanh có
nhập Viên giác mới được thành Phật. Vì thế nên hằng sa đức Phật ra
đời, đều nói kinh Viên giác.
Vì kinh Viên giác rất quý báu như thê, nên các đức Như Lai trong 3 đời
thường giữ gìn và bảo hộ kinh này. Mười phương các vị bồ tát đều quy y kinh
này, vì quy y kinh này là quy ý tánh Viên giác.
Giáo pháp của Phật tuy nhiều, nhưng tóm lại chia ra có 12 bộ kinh, tức
là 12 loại kinh. Kinh nào cũng đều nhắm một mục đích là dạy chúng sanh
tu hành thành Phật; mà muốn thành Phật thì phải nhập Viên giác. Bởi
thế nên kinh này là “tròng con mắt” của 12 bộ kinh
“12 Bộ kinh” - Phật ra đời thuyết pháp 40 năm, tóm lại có 3 tạng: Kinh,
Luật, và Luận; phân ra 12 bộ, tức là 12 loại
Có bài kệ tóm 12 bộ kinh:
Trường hàng, Trùng tụng và Cô khởi
Thí dụ, Nhơn duyên cùng Tự thuyết
Bổn sanh, Bổn sự, Vị tằng hữu
Phương quảng, Luận nghị và Ký biệt
Kinh này có nhiều đức tính và nhiều công dụng nên có nhiều tên:
a. Ðại Phương Quảng Viên giác Ðà La Ni kinh
Tánh Viên giác Quảng đại phương viên bao trùm và gìn giữ các Pháp.
“Ðà La Ni”, Tàu dịch là “Tổng Trì”: bao trùm và gìn giữ các Pháp
1. Pháp Ðà La Ni. - Chỉ một chữ, một danh hiệu hay một câu, mà bao trùm
tất cả chữ, tất cả danh hiệu và tất cả câu.
2. Nghĩa Ðà La Ni – Như nói Chơn như, Duy tâm, Duy thức, Pháp giới
v.v.. đều đã tóm thâu sự vật sai biệt.
3. Ðịnh Ðà La Ni – Do sức Ðịnh mà tinh thần thống nhất tập trung lại,
nên phát huy được lực lượng rất mạnh, nhờ đó mà thành tựu được nhiều môn
Ðịnh (Ðịnh Tổng trì).
4. Chú Ðà La Ni. - Tức là thần chú. Do hành giả tập trung tinh
thần trì chú, nên có sức mạnh làm cho hành giả được toại bản nguyện của
mình.
b. “Tu Ða La Liễu Nghĩa”. - Chữ “Tu Ða La”, tàu dịch là “Khế
kinh”. Nghĩa là kinh này hiệp với chơn lý và căn cơ của chúng sanh.
Chữ “Liễu Nghĩa”: Nghĩa lý rốt ráo đứng đắn. Kinh của Phật có
hai loại:
1. Bất liễu nghĩa kinh là những bộ kinh Phật tùy quốc độ, tùy thời đại
và tùy căn cơ, mà phương tiện nói ra, như các kinh về tiểu thừa, nghĩa lý
chưa rốt ráo.
2. Liễu nghĩa kinh là những bộ Kinh nghĩa lý rốt ráo đúng đắn, Phật nói
đúng chân lý không có tùy thời tùy cơ v.v.. Như các kinh Ðại
thừa. Kinh “Viên Giác” đây thuộc về kinh Liễu Nghĩa.
c. “Bí Mật Vương Tam muội”. - Chữ “Tam muội” tức là “Tam ma địa”,
Tàu dịch:
1. Ðẳng trì
2. Chánh định
3. Chánh thụ
4. Chánh tư duy
Viên giác Tam muội này cao cả hơn các pháp Tam muội cho nên gọi là
“vương” (vua).
Chữ “Bí mật. – Pháp Viên giác tam muội này, duy có Phật mới hoàn toàn
thấu rõ được; ngoài ra như chúng sanh thời không biết, cho đến bực đẳng
giác bồ tát cũng chưa có thể thấu tột được, cho nên nói là “bí mật”.
d. “Như Lai quyết định cảnh giới kinh”. - Cảnh giới Viên giác này duy
có đức Như Lai mới quyết định chứng nhập được. Từ bực đẳng giác Bồ tát trở
xuống, ở trong vòng cầu chứng nhập, nên chưa quyết định được.
e. “Như Lai tạng tự tánh sai biệt kinh”. - Chữ “Như Lai tạng”,
nghĩa là “Như Lai” còn tại triền. Bởi các vọng huyễn chưa viễn
ly. Giác tánh chưa phát hiện. Nghĩa là “quả đức Như Lai” còn bị
tiềm tàng ẩn phục trong tâm của chúng sanh; tức là tánh Viên giác còn
bị triền phược vậy.
Chữ “Tự tánh”: Tánh Viên giác tùy duyên ứng hiện ra các pháp sai khác,
nên gọi là “sai biệt”.
***
4. Phật nói công đức trì kinh này
-Này Thiện nam! Kinh này nói về cảnh giới của Như Lai, nên duy có
Phật mới hay biế,t còn các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ y theo đây
tu hành lần hồi tiến đến địa vị Phật.
Này Thiện nam! Kinh này tên “Ðại thừa đốn giáo”. Những chúng
sanh đốn cơ mới có thể do kinh này được khai ngộ. Kinh này cũng tiếp
độ các chúng sanh về tiệm tu. Bởi thế nên kinh này cũng như biển cả,
không nhượng các dòng sông nhỏ. Lớn như Thần A Tu La và nhỏ như loài
mòng muỗi, uống nước biển đều no bụng cả.
Này thiện nam! Giả sử có người dùng toàn 7 món báu, chứa đầy cả
đại thiên thế giới, đem ra bố thí; công đức của người ấy rất lớn, nhưng
không bằng có người nghe tên kinh này, cho đến chỉ nghe nghĩa một câu, công
đức người này nhiều hơn.
Này thiện nam! Giả sử có người giáo hóa chúng sanh tu hành chứng
được quả A La Hán nhiều đến trăm lần số cát sông Hằng, nhưng không bằng có
người giảng nói kinh này, cho đến rất ít là chỉ giảng nửa bài kệ, công đức
của người sau này nhiều hơn.
Này thiện nam! Nếu có người nghe kinh này tin tưởng không nghi
ngờ, thì biết người đó đã trồng phước huệ không những ở một đời Phật, hoặc
hai đời Phật, mà người này đã trồng căn lành từ nhiều đời Phật, như số cát
sông Hằng; cho nên nay nghe đến kinh này mới hay tin thọ.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này có 5 phần:
1. Kinh này nói về cảnh giới viên giác nên duy có Phật mới hay
thấu triệt, còn từ các vị Bồ tát trở xuống chỉ y theo đây tu hành mà thôi
2. Kinh này thuộc về Ðại thừa đốn giáo, nên rất hợp với những
người căn cơ Ðại thừa đốn ngộ. Song kinh này cũng tiếp độ các người
căn cơ Tiểu thừa tiệm tu; thí như biển cả không nhượng các dòng
sông. Tất cả chúng sanh lớn như A Tu La (Dụ đại thừa) nhỏ như mòng
muỗi (dụ nhị thừa) uống nước biển đều được no cả.
“Ðốn giáo”. – Ngài Phổ Hiền phân Tam tạng kinh giáo của Phật làm năm
thời:
1. Tiểu (tiểu thừa)
2. Thỉ (đại thừa thỉ giáo)
3. Chúng (Ðại thừa rốt sau)
4. Ðốn (Ðại thừa đốn giáo - Chữ “Ðốn” là mau lẹ, nhanh chóng)
5. Viên (Ðại thừa viên mãn)
Ngài Thiên Thai lại phân làm bốn thời:
1. Tạng (tiểu thừa tạng giáo)
2. Thông (Thông đến đại thừa)
3. Biệt (đặc biệt Ðại thừa)
4. Viên (đại thừa viên giáo)
3. Phật dạy người thọ trì kinh này, công đức quý hơn người bố thí
bảo vật. Người dùng bảy món báu đựng đầy cả Ðại thiên thế giới, đem bố
thí cho chúng sanh, công đức của người ấy tuy lớn, nhưng thuộc về phước hữu
lậu, nên chỉ hưởng trong một thời gian rồi hết. Không bằng người nghe
tên kinh này, cho đến chỉ nghe một câu nghĩa, tuy rằng ít, nhưng đã
gieo được hạt giống vô lậu thanh tịnh, không sớm thì muộn, thế nào cũng
được quả vô lậu, nên quý hơn tài thí.
4. Người giảng kinh này, công đức nhiều hơn người giáo hoá vô số
hàng Nhị thừa. Vì giáo hóa vô số người chứng quả Nhị thừa, công đức tuy
lớn, nhưng chỉ thuộc về Tiểu thừa quả, nên không bằng người y theo kinh
liễu nghĩa Ðại thừa nói một câu hay một bài kệ, làm cho người ngộ được tánh
Viên giác, không sớm thì chày người ấy quyết định sẽ được thành Phật.
Ví như các ngôi sao tuy nhiều, nhưng sáng không bằng một mặt trăng.
5. Người nghe kinh này mà sanh tâm vui mừng, ham mộ và tin tưởng,
không nghi ngờ, thì biết người này đã có trồng hạt giống đại thừa, từ nhiều
đời đức Phật.
***
5. Phật khuyên các đệ tử phải bảo hộ cho người trì kinh này
-Này Thiện nam! Các ông phải bảo hộ những người tu hành đời mạt
pháp, chớ để cho các loài ác ma và ngoại đạo làm não loạn thân tâm của
người tu hành, khiến cho họ thối tâm.
LƯỢC GIẢI
Ðời mạt pháp, chúng ngoại đạo tà sư rất thạnh hành hay làm nhiễu loạn
đến người tu hành. Nếu không bảo vệ giữ gìn, thì hành giả sẽ bị chúng
ma nhiễu hại, rồi phải thối chí ngã lòng.
***
6. Các vị thiện thần phát nguyện bảo hộ người tu hành
Khi ấy ở trong pháp hội có tám vạn Thần Kim Cang như ông Hỏa Ðầu kim
Cang, Tối Thoái Kim Cang, Ni Lam Bà Kim Cang, cùng với quyến thuộc liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi kính cẩn lạy Phật
và thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn! Nếu các chúng sanh đời sau, có người nào thọ trì
kinh Ðaị thừa này, thì chúng con nguyện bảo hộ người ấy giữ gìn tròng con
mắt; cho đến chỗ đạo tràng của người này tu hành, chúng con cũng nguyện dẫn
hết binh tướng đến đó, sớm chiều bảo hộ, khiến cho họ chẳng thối chuyển.
Chỗ nhà cửa của người này ở, hằn không có tai chướng, các tật bịnh đều tiêu
hết, của báu giàu có, thường chẳng thiếu thốn.
Khi ấy ông Ðại Phạm Vương và 28 vị Thiên Vương, cùng ông Tu Di Sơn
Vương và Hộ Quốc Thiên Vương v.v... đều đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng rồi kính cẩn lạy Phật và thưa rằng:
-Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện bảo hộ người thọ trì kinh này,
thường được an ổn, tâm chẳng thối lui.
Khi ấy có Ðại Lực Quỷ Vương, tên là Cát Bàn Trà cùng với 10 vạn Quỷ
Vương, đứng dậy đi quynh bên hữu của Phật ba vòng, rồi lạy Phật và thưa
rằng:
-Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện sớm chiều hộ vệ
người thọ trì kinh này, khiến cho họ không thối lui. Chỗ của người trì
kinh ở, trong khoảng một do tuần (10 dặm) nếu có chúng quỷ thần nào đến xâm
phạm cảnh giới này, thì chúng con sẽ đập nó nát như vi trần.
Khi ấy tất cả Ðại chúng như các vị Bồ tát, Thiên long, Quỷ thần, quyến
thuộc của 8 bộ Quỷ thần và chư Thiên, Phạm vương v.v.. nghe Phật nói kinh
này đều hoan hỷ, tín thọ và phụng hành
LƯỢC GIẢI
Chương thứ 12 này là nói về việc truyền bá lưu thông. Thính chúng
trong pháp hội, trên từ các vị đại Bồ tát dưới cho đến chúng quỷ thần, nghe
Phật nói kinh này, từ chương thứ 11 là chương Viên giác rồi, tất cả đều lấy
làm quý báu vô cùng, lợi lạc cho chúng sanh vô tận, nên hớn hở vui mừng,
tin thọ và phụng hành. Bởi thế nên các vị Thiện thần đều phát nguyện
bảo hộ kinh và triệt để ủng hộ người thọ trì đọc tụng kinh này.
Chúng ta chắc đã có trồng căn lành từ nhiều đời trước, cho nên hôm nay
mới có diễm phúc được nghe kinh này. Ước mong qúy vị mỗi ngày nên phát
Bồ đề tâm tu hành và truyền bá kinh này được phổ cập quần sanh. Thế là
chúng ta đã đền đáp được ơn Phật mà cũng thực hành theo hạnh Phật là “Tự
giác giác tha, giác hạnh viên mãn”.
CHUNG
|
|